BÙA THIÊN YỂM
Thực dân trong thế kỷ 19
Đông Nam Á trong kỷ nguyên Thực Dân
(KY 1)
Thực dân không là chuyện mới lạ trong lịch sử nhân loại cũng không giới hạn trong khuôn khổ loài người. Ong kiến cũng biết nuôi nô lệ để phục vụ cho mình. Đó là cái luật bẩm sinh của mọi sinh vật, và khi đã là luật tiến hoá của vũ trụ thì không có vấn đề đạo đức mà chỉ còn lại sự sinh tồn. Kẻ chiến thắng là kẻ tồn tại cuối cùng. Nói như thế thì từ ngày lập quốc người Việt đã không ngừng chiến thắng vì cũng từ ngày lậâp quốc người Việt đã liên tục là nạn nhân của các đế quốc thực dân từ người Trung hoa, Môâng Cổ cho đến những đế quốc thực dân Tây Phương sau này nhưng người Việt vẫn tồn tại. Mặt khác chính người Việt cũng là một loại thực dân trong cuộc Nam tiến đã xoá tên hai dân tộc.
Mọi chế độ thực dân khởi đi bằng một cuộc chiến tranh do kẻ mạnh phát động để chinh phục kẻ yếu, và kết thúc bằng một cuộc chiến tranh của kẻ yếu nổi dậy đòi quyền sống. Lịch sử vẫn tái diễn không ngừng những hợp tan của các đế quốc. Những khoảng cách địa dư không cho phép bành trướng vô hạn định lãnh thổ của một đế quốc, nên ở một mức nào đó nó sẽ tự huỷ hoại vì những ung thối và phân hoá nội tại.
500 năm trước (1200), cuộc chinh phục của Mông Cổ là một biến cố vĩ đại, thì trong những năm chót của thế kỷ 19, sự bành trướng của các đế quốc thực dân Tây Phương cũng ngoạn mục không kém .
Khi tìm hiểu về những biến cố của nhân loại trong giai đoạn này, đặc biệât sự nổi trôi của thân phận Việt Nam, thì sự tìm hiểu về tầm vóc quan trọng của các đế quốc thực dân Tây Phương, đặc biệât trong khu vực Đông và Đông Nam Á Châu là một điều cần thiết.....
Muốn nhìn rõ tầm quan trọng trong sự bành trướng của đế quốc thực dân tại Đông Nam Á, người ta không thể nhìn riêng biệt ở hành động của từng quốc gia Tây phương, thí dụ như trường hợp của người Pháp tại việt Nam, người Anh tại Ân độ, người Tây Ban Nha tại Phi, người Hà Lan tại vùng quần đảo Indies, mà phải nhìn tổng quát như một bệnh dịch chiếm đất của Tây phương, khởi đi từ thể kỷ 15 và lan rộng trên toàn thế giới. Trường hợp của Á Châu, do đó cũng chỉ là một phần của cao trào thực dân đang bùng nổ từ Mỹ Châu, Phi Châu, Trung Đông...
Bước hành động của thực dân có thể tổng lược trong ba giai đoạn.
1- dùng sức mạnh quân sự và vũ khí tân tiến áp lực để đòi những đặc quyền thương mại, qua những thoả ước bất bình đẳng, hoăc chiếm cứ và biến một số vị trí chiến lược như hải cảng, cửa khẩu thành những xứ bán thuộc địa.
2- Biến những đầu cầu này thành những thí điểm thuộc địa toàn diện, có nghĩa là chiếm hữu và xác nhận chủ quyền, như một nhượng địa hoăïc một sở hữu vô thời hạn.
3- Ap lực bằng sức mạnh quân sự, bành trướng tiệm tiến ra toàn thể lãnh thổ một quốc gia và gọi đó là một lãnh thổ hải ngoại (extraterritorial) hoặc một xứ bảo hộ (etat protecroral).
Dù dưới tên gọi nào thì nội dung vẫn chỉ là sự bóc lột không nương tay những xứ thuộc địa, trong đó người dân địa phương bị biến thành những nô lệ và tài nguyên của đất nước họ bị cướp giựt
Trong những thế kỷ trước, sự hiểu biết về địa dư, địa cầu rất kém, con người thường lần theo đường bộ, để nới rộng dần khu vực sinh hoạt thương mại ngoài quê hương mình. Thương mại thường dẫn theo chiến tranh, chinh phục để bảo vệ quyền lợi của các thương nhân và giới cầm quyền.
Sự bành trướng bằng đường biển cũng có, nhưng trước thế kỷ 14 chỉ mang tính cách địa phương, vì sự hạn chế của các phương tiện hải hành, kỹ thuật đóng tầu lớn chưa phát triển, các hạm đội nhỏ không chở được nhiều quân viễn chinh, không tiếp vận thoả đáng. Các cuộc tấn công bằng đường biển quá trắc trở và thường ngắn hạn.
Kinh đào Suyez chưa có, con đường vòng theo mũi Hảo vọng ở chỏm đuôi của Phi Châu chưa kiếm ra. Trước thời Coprnicus (1500) người ta còn cho rằng trái đất hình vuông, đi hoài trên biển sẽ rớt vào vực thăm của không gian...
Kể từ thế kỷ 15 tình trạng này hoàn toàn đảo nghịch, một hạm đội với vài ba chiến thuyền, vài trăm người lính và súng đại bác, là có thể áp đảo và khống chế dễ dàng các vùng đất xa lạ.
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha dẫn đầu trong việc chiếm thuộc địa. Cuối thế kỷ 18, sau khi đã chiếm cứ nhiều vùng đất mênh mông tại Phi Châu, Trung Đông, Nam Mỹ, việc chiếm đất để khai thác này đã trở thành một cuộc chạy đua nước rút, nhắm vào các vùng đất còn lại tại Á Châu và Á Châu Thái Bình Dương.
Anh quốc vừa hoàn tất việc sát nhập Miến Điện, Ấn Độ. Pháp chiếm Việt, Miên, Lào và một phần lãnh thổ Thái. Thái Lan giữ được độc lập nhờ ngoan ngoãn nhượng đất và cũng nhờ là quốc gia nằm giữa hai thế lực thực dân Anh Pháp, nên trở thành vùng trái độn dưới ảnh hưởng mạnh của người Anh.
con tiep.....
KY 2
Nhật cũng chổi dậy như một đế quốc thực dân. Năm 1890 họ chiếm Đài Loan, sau đó chiếm Triều Tiên. Hoa Kỳ giựt Phi Luât Tân khỏi tay người Tây Ban Nha. Hà Lan kiểm soát toàn bộ Indonesia. Đức chiếm vùng Shantung và đang đẩy mạnh việc chiếm thêm các nhượng địa khác trên đất Trung Hoa, Nga Nhật tranh nhau chiếm Mãn Châu. (trong cuộc chạy đua này Hoa Kỳ cầm đèn đỏ không phải vì Hoa Kỳ không đủ sức mạnh quân sự để đàn áp đám thổ dân hoặc đối đầu với các quốc gia thực dân khác, nhưng lý do chính là vì họ bị trói buộc bởi lý tưởng lập quốc. (Chính Hoa Kỳ cũng từng là thuộc địa của Anh nên rất thù ghét thuộc địa).
Bản đồ Á Châu 1595
Những hiểu biết đầu tiên về vùng Đông Nam Á Châu có thể được kể đến là ghi nhận của Marco Polo trên con đường trở về Venice, sau 20 năm phiêu bạt tại Trung Hoa dưới thời Thiết Mộc Chân (Kublai Khan) khoảng 1275.
Rời Venice khi 17 tuổi, 24 năm sau mới trở về, Marco Polo đã sống gần trọn cuộc đời trẻ tuổi của mình tại Á Châu, ngay cả đã được Thiết Mộc Chân trọng dụng như một người thân tín.
Một vài năm sau khi trở về Venice, Marco polo bị cầm tù trong một cuộc nội chiến, và trong thời gian này ông thực hiện được một cuốn sách kể lại những điều mắt thấy tai nghe của mình, trong cuộc phiêu lưu từ Á sang Âu trong đó một phần quan trọng được dành để mô tả chi tiết về một nước Trung Hoa trong một Á Châu đầy huyền bí, đầy hấp lực, giầu thịnh và rực rỡ văn minh.
Rất nhiều ghi nhận của Marco Polo về học thuật hoặc văn minh Á Châu, đã dần được áp dụng tại Âu châu như việc sử dụng tiền giấy thay cho kim ngân bản vị, cách phối trí thành phố như một bàn cờ, hệ thống đường xá liên tỉnh với những trạm dịch và cách chuyển vận thư từ... sự tráng lệ của thành Bắc Kinh.
Những ký sự của Marco Polo mới đầu tuy chỉ được ghi nhận như một câu chuyện hoang đường thí dụ như sự mô tả của ông về trái dừa của miền nhiệt đới, sự tráng lệ tân tiến của kinh thành Bắc Kinh, một thành phố tân kỳ như một bàn cờ vĩ đại 30 dặm vuông, với đường xá thẳng góc với nhau và là nơi mà người ta có thể tìm thấy: "những thứ gì qúy giá nhất, hiếm nhất trên cuộc đời này".
Tuy nhiên cái vẻ rực rỡ hoang đường của Á Châu này càng ngày càng lôi cuốn Âu Châu nhiều hơn, nhất là thế kỷ 15 khi mà kỹ thuật hàng hải của Âu Châu phát triển mạnh mẽ hơn, các chiến thuyền đi được xa hơn, cũng như mang về thêm nhiều tin tức của vùng Á Châu, để minh xác là những mô tả của Marco Pollo tuy kỳ diệu nhưng chỉ là một phần nhỏ của một Đông Phương huyễn hoặc, đầy hấp lực và giầu thịnh.
Âu châu bừng tỉnh sau thời đại đen tối (dark age) tiến bộ mau chóng về cơ giới nhất là sự áp dụng thuốc pháo thành một thứ võ khí,trong lúc Á châu vẫn ngủ vùi trong nền văn minh cũ.
Nhật ký hải trình của Marco Polo có nói sơ tới vương quốc Champa (Nam Trung Việt), đảo Phú Quốc, và cho rằng đây là một vùng giầu thịnh nổi tiếng với loại gỗ đen (gỗ mun hoặc gỗ lim) và cũng có những hải cảng thường xuyên có khách thương ghé qua.
Chuyến hải trình của Marco Polo trên đường về quê hương, cũng nói tới vùng Borneo với gỗ trầm hương, vùng Singapore và quần đảo Sumatra, Java mà ông cho là một hải đảo lớn cuả thế giới, chu vi 3000 dậm, có nhiều gia vị và sinh hoạt thương mại tấp nập. Đặc biệt vùng eo biển Malacca (phía Bắc của Singapore hiệân nay), vùng cổ họng của mọi hải trình từ Âu sang Á.
MALACCA SNGAPORE
Từ thế kỷ 14, vùng eo biển Malacca này đã phát triển cực độ về thương mại song hành với Hồi Giáo.
Khu vực này đã được người Tầu chiếu cố tới từ đời nhà Minh (khoảng 1405-1433) với những đợt thám hiểm hùng hậu bởi các chiến thuyền và thương thuyền Trung Hoa. Trong đợt thăm dò đầu tiên tại vùng hải đảo cực Nam này, người Tầu tung ra một hạm đội vĩ đại với 62 thuyền và 28.000 thủy thủ. Thuyền của Trung Hoa dong buồm đến tận Java, ceylon (Tích Lan)
Những cuộc thám hiểm kế đó họ đi xa hơn tới tận vùng bờ biển phía đông của Phi Châu, vịnh Ba Tư và Hồng Hải.
Cùng giai đoạn này, Người Bồ chỉ có những thuyền nhỏ và kỹ thuật hải hành thua xa người Trung Hoa nên chỉ mới giám lần mò quanh vùng bờ biển Phi Châu (Bắc phi).
Vậy mà nỗ lực thăm dò của người Trung hoa đột nhiên được lệnh của vua nhà Minh phải dừng lại. Người ta chưa biết rõ lý do tại sao.
KY 3
Trong lúc người Tầu co cụm lại thì người Bồ nhờ học được kỹ thuật làm thuyền của Ả Rập, đã tiến thật mau trong nghề đi biển và chẳng bao lâu trở thành những anh lính tiền phong trong chiến dịch chiếm đất thuộc địa..
Ngừơi Trung Hoa không có tham vọng lãnh thổ ngoài lục địa Á Châu. Nỗ lực biểu dương lực lượng của họ đặt trọng tâm vào việc khoa trương thanh thế, để minh thị tư thế bá quyền của Minh triều tại Á Châu hơn là chinh phục.
Trái lại, người Bồ cũng như người Tây Ban Nha, sau khi cải tiến được kỹ thuật đóng tầu viễn duyên và pháo binh, đã không cần dấu diếm lòng tham lam đối với những nguồn tài nguyên bất tận của Á Châu Thái Bình Dương. Họ là những Conquistador, những người đi chinh phục, như Hernando Cortes từng viết khi chinh phục Mễ Tây cơ năm 1521:
"Người Tây ban Nha chúng tôi có một bệnh nặng trong trái tim, căn bệnh này chỉ có thể chữa trị bằng vàng. Chúng tôi đi tìm vàng mà không phải tìm đất để canh tác như những nông nô lao động.
Tương tự Thuyền trưởng Bồ Đào Nha João Ribeiro năm 1685 từng viết:
Mũi Hảo Vọng (cape of good hope)
"Từ mũi Hảo Vọng (cửa ngõ đầu tiên được khám phá trên con đường mở vào Thái Bình Dương), chúng tôi không muốn để bất cứ mảnh đất nào thoát ra ngoài vòng kiểm soát của người Bồ. Chúng tôi muốn đặt tay lên bất cứ chuyện gì trên vùng lãnh hải mênh mông trải dài trên 5000 hải lý, từ Sofala (trên bờ biển phía Đông của Nam Phi) tới Nhật Bản... Không còn chân trời góc biển nào mà chúng tôi không chiếm cứ hay có tham vọng chiếm cứ để biến thành của tư hữu......"
Tới đầu thế kỷ 16 (1511) giữa lúc Malacca đang phát triển cực độ về thương mại, hải cảng bị một nhóm người Bồ Đào Nha chiếm cứ.
Biến cố này có thể kể là giai đoạn mở màn của phong trào thuộc địa Tây Phương, trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương, và đã diễn ra song hành với việc bành trướng của Thiên Chúa Giáo đối lại với Hồi Giáo.
Tuy nhiên, đúng như tên gọi, người Bồ hay người Tây Ban Nha, chỉ là những người đi chinh phục để hôi của (conquistador), không có khả năng cai trị và thống trị của thực dân thuộc địa, nên tới 1610 thế lực của Bồ Đào Nha suy yếu, họ không còn đủ khả năng để bảo vệ vùng này, trước những thế lực bên ngoài và phải nhượng lại cho người Hoà Lan.
Tây Ban Nha cũng có hải thuyền thám hiểm khu vực này. Vào khoảng 1522 họ khởi sự chiếm một đảo nhỏ ở phía Đông Borneo và đến năm 1559 chiếm cứ quần đảo Phi luật Tân.
Đây là những bước thăm dò đầu tiên của thực dân Tây Phương trong thế kỷ 16.
Ở giai đoạn tiền bán thế kỷ 16, người Bồ cũng có vài chuyến thăm dò vùng bờ biển Nam Việt do một phụ tá của đề đốc Albuquerque là thuyền trưởng Antonio da Faria. Thuyền của Faria tới hải cảng Tourane (Đà Nẵng) năm 1535, và kiếm được một hải cảng tốt cách Tourane 15 dậm về phía Nam, sau được đặt tên là Faifo. Mặc dù người Bồ không thành công trong việc biến Faifo thành một trung tâm thương mại tiêu biểu cho quyền lực của Bồ Đào Nha như ở Macao, nhưng cho đến 1540 thi khu vực này đã trở thành một cửa khẩu chính để nhập cảng hàng ngoại quốc, trong một khu vực được người Bồ đặt tên là Cochin-China. (Cochin nguyên là một tiểu quốc ở phía Tây Nam Ấn Độ, tiếp giáp với vùng biển Ả Rập. Có một thành phố tên là Cochin, là một hải cảng quan trọng vùng bờ biển Malabar.
Sau khi Vasco da Gama thám hiểm khu vực này năm 1502, một khu căn cứ của Bồ được thiết lập. Năm 1663, người Hòa Lan chiếm căn cứ này, sau đó năm 1795 lại lọt vào tay người Anh. Do đó Cochin-China là để chỉ vùng đất Nam Việt ngày nay ở giữa căn cứ Cochin và Trung Hoa)
Những trao đổi thương mại với Bồ Đào Nha tiếp diễn trong thế kỷ 16, qua những chuyến buôn bán giữa thuộc địa Macao trên lãnh thổ Tầu, và vùng bờ biển xứ Annam.
Cuối thế kỷ 16 thế lực quân sự của Bồ suy giảm, kéo theo sự tàn lụi của đế quốc này.
Người Hoà Lan và người Anh bắt đầu chiếm ưu thế với những hạm đội và phương tiện hải hành tân tiến hơn.
Căn cứ địa chính của người Hoà Lan là đảo Java. Từ đầu cầu đó họ giựt Tích Lan của Bồ, Tới đầu thế kỷ 17 họ cộng tác với người Anh toả rộng ảnh hưởng trong vùng hải đảo East Indies (tên gọi chung của vùng quần đảo Sumatra, Borneo, Malaysia, Indonesia) nhưng tới năm 1623 thì cuộc chiến bùng nổ giữa hai nước với ưu thế ngả về người Hoà Lan.
Tới 1637 người Hoà Lan bành trướng ảnh hưởng xa hơn vào lục địa A Châu. Họ buôn bán tơ lụa với Thái và mở xưởng tại Phố Hiến (gần Hưng Yên Bắc Việt), liên lạc với triều đình Huế.
Năm 1654 người Anh cũng được cho phép buôn bán và mở cơ xưởng tại Phố Hiến, nhưng cơ sở thương mại và hãng xưởng của người Anh trì hoãn mãi tới 1683 mới bắt đầu hoạt động.
Giai đoạn này người Pháp cũng tìm cách xin làm ăn ở Bắc Hà, nhưng gặp sự cản trở của người Hòa Lan đã đến từ trước, vả lại lúc đó Việt Nam đang thời nội chiến nên việc làm ăn không ổn định và không có lợi, nên người Pháp cũng không tha thiết lắm.
CON TIEP
KY4
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, từ 1627 tới 1674, Chúa Trịnh chủ động chiến trường với sự yểm trợ của người Hòa Lan, mở 7 cuộc tấn công không thành công vào lực lượng chúa Nguyễn ở Nam Hà. Trongđợt tổng tấn công lần thứ 3 ( 1639- 1643), Chúa Trịnh liên tiếp thất bại, không phá nổi phòng tuyến của chúa Nguyễn.
Việc người Hòa lan giúp chúa Trịnh bị người Bồ dèm pha, đưa đến việc người Hòa Lan bị trục xuất khỏi xứ Đằng Trong.
Lực lượng phối hợp này cũng không thành công, mà còn bị chiến thuyền của chúa Nguyễn đánh úp, bắt sống được một chiến thuyền lớn của Hòa Lan, một chiếc khác may mắn tháo chạy kịp thời.
Sau cuộc hành quân này, Chúa Trịnh chê trách là người Hòa Lan không đủ sức mạnh để giúp mình, vì thế tới 1700 thì cả hai phe Hòa Lan và Anh Quốc cùng rút lui khỏi Bắc Hà. Việc buôn bán với hai xứ Bắc và Nam Hà vì thế chỉ thu gọn trong việc hai phe cùng mua súng ống của người Bồ Đào Nha ở Macao.
Họ Trịnh mới đầu ở thế chủ động nhưng phải đánh nhau ở xa nhà, tinh thần binh si kém vì bệnh tật và tiếp vận khó khăn, trong lúc Chúa Nguyễn ở thế phòng thủ, nhưng tinh thần cao vì chiến đấu để bảo vệ chính ruộng đồng của mình. Thời gian sau này các Chúa Nguyễn còn được lợi thế nhờ súng ống tối tân hơn mua của người Bồ ở Ma Cao, ngay cả vào năm 1630 đã thiết lập được một lò đúc súng ở Huế, nhờ sự chỉ dẫn của một người Bồ đào Nha tên Jao Da Cruz
Chính những liên lạc với người Bồ Đào Nha này đã mở đường cho việc của phái bộ truyền giáo Jesuit (dòng Tên) được sự đỡ đầu của người Bồ.
Nhà dòng Jesuit trước kia hoạt động tại Nhật Bản (mở đầu với Francis Xavier) nhưng không thành công, sau đó bi trục xuất khỏi Nhật và đang cần một căn cứ địa khác.
Linh muc dong Ten
Năm 1614, Một phái bộ truyền giáo của nhà dòng này được thiết lập tại Hội An (Faipho). Tới 1626 một cơ sở truyền giáo thứ nhì được thành lập tại Bắc Viêt.