0913_logo_copy

MAT BAO LICH SU BOOK 1 (KY 12- 27) DONG DUY

Monday, May 5, 201412:00 AM(View: 103669)
cua_bac_1-thumbnail

KY 12
 




Tuy nhiên vì lo sợ Nguyễn Ánh có thể phục hồi, Huệ đành sai Phan văn Hưng mang một lực lượng thuỷ quân hùng mạnh vào cứu Sâm. (Không dùng bộ binh vì phải băng qua lãnh thổ của Nhạc dù bộ binh mới là sở trường của Nguyễn Huệ).
 Nguyễn Ánh lại có thêm vây cánh mới là Võ Tánh, (không phải cựu thần của Chúa Nguyễn, Tánh nổi loạn từ trước khi Ánh trở về).
 Võ Tánh có một quan hệ mật thiết với Bá Đa Lộc (cha tinh thàn) nên có thể đã được Bá Đa Lộc goi về và sau này lại là anh em rể của Nguyễn Ánh. Nhờ phụ tá của Võ Tánh, lực lượng Nguyễn Ánh lên đến cả vạn người.
 Trận đánh quyết định giai đoạn phản công diễn ra ngày 7-9-1788 tại rạch Thị Nghè. Quân Tây Sơn thua to, Phan văn Sâm phải tháo chạy và Nguyễn Ánh chính thức tái chiếm Sàigon. Cái đà chiến thắng này tất nhiên sẽ không dừng lại ở đây vì thế lực và tinh thần quân Tây Sơn ngày một sa sút nhưng vẫn chưa thể nói lực lượng này đã bước vào giai đoạn thoái trào.
 Cũng trong giai đọan này Nguyễn Huệ đang bận đánh nhau với quân Nhà Thanh ở Bắc Việt nên dù có muốn đích thân vào cứu cũng không thể làm đuợc.
 Đây là giai đoạn cực điểm vinh quang của Nguyễn Huệ và uy thế của Tây Sơn. Năm 1789, Nguyễn Huệ vừa đăng quang Hoàng đế hiệu là Quang Trung và đang điều quân ra Bắc để đối Phó với 20.000 quân Thanh do Tôn Sỹ Nghị vừa kéo sang Việt Nam theo lời yêu cầu của vua Lê Chiêu Thống.

 Như sự tiết lộ trong thư đề ngày 15-7-1789 của Olivier de Puymanel viết từ Sàigon gửi cho M Letodal ở Macao để thăm dò về lực lượng của Tây Sơn ở miền Bắc cũng như trận chiến với Trung Hoa. Nguyễn Ánh muốn khai thác tình trạng nước đục để thả câu và cũng hi vọng là có thể Nguyễn Huệ sẽ đại bại trước quân Tầu.
 
 :"Ông Hoàng hiện đã chiếm lại đuợc 3 tỉnh và mới nhất đây đã bắt được một tướùng của phe Ngụy gửi từ Huế tới. Mới đầu, ông đã định tha chết cho y thị nhưng đột nhiên nổi ý nghi ngờ nên lại lôi ra chém đầu. Ông cũng rất nôn nóng thấy những chiến thuyền Pháp mang con ông trở về đây. Phía Tây Sơn cũng biết từ lâu là nước Pháp sẽ phải trợ giúp Nguyễn Ánh nên tỏ ra rất lo ngại khi phát hiện gần bờ biển Annam những Tầu Pháp từ Macao. Có lẽ vì thế mà hồi đầu năm, chưa thấy Ngụy quân ở Huế mang quân tới vùng này. Cũng có thể một lý do khác đã buộc chân quân Tây Sơn là vì họ đang bận đánh nhau với Trung Hoa.
Hoàng thượng muốn biết những gì đang xẩy ra, lực luợng của đôi bên, và hi vọng rằng những quen biết của ông với nguời Trung Hoa sẽ cho Hoàng Thuợng biết nhưng tin tức chính xác hơn là những tin tức nhận đuợc ở đây...."
 
 Ngay sau đó, đầu năm 1790 Nguyễn Ánh gửi một công hàm cho vua Louis XVI lời lẽ ôn nhu nhưng không kém phần ngạo mạn cho biết không cần đến người Pháp nữa và gián tiếp minh thị là hiệp ước Versaille 1787 không có giá trị.

 “....còn những viện trợ đã xin với bệ hạ, tuy không nhận được, tôi vẫn nghĩ rằng việc đó không do lỗi của bệ hạ mà là do người chỉ huy quân sự của bệ hạ tại Ấn Độ. Tôi sẽ không bao giờ nói được hết tấm lòng tri ân của tôi đối với bệ hạ đã có lòng tốt cho hoàng tử con tôi trở lại với tôi. Việc đoàn tụ cha con, người ta thường nói, như trả về với nước một con cá từ nước thoát ra, dẫu vạn ngàn xa cách tôi sẽ không quên những ân huệ lớn lao này.
 Còn về lực lượng hiện tại của tôi, tôi đang có một đạo quân khá đông, lục quân cũng như hải quân, tôi có quân nhu, quân lương khả dĩ đủ cho cái chiến dịch mà tôi còn phải thực hiện. Tôi chẳng giám xin bệ hạ viện trợ cho quân lính nữa."

 
 Lá thư gửi Pháp Hoàng này, không biết có sự tham khảo với Bá Đa Lộc hay không nhưng quả là một hành động khôn ngoan của Nguyễn Ánh. Trước hết nó ngăn chặn việc người Pháp thấy Nguyễn Vương đã có cơ may chiến thắng sẽ gửi một số quân tượng trưng sang lấy cớ là trợ giúp nhưng thực sự là đòi thực thi hiệp ước Versaille. (chuyện này đã xẩy ra trong những năm sau này khi Nguyễn Ánh đã thống nhất sơn hà). Lá thư cũng ngầm cho người Pháp hiểu là ông có một lực lượng hùng hậu đủ để vô hiệu hoá thoả ước Versaille trong trường hợp người Pháp có gian ý này.
 
 Cuộc chiến với Tây Sơn còn tiếp diễn nhùng nhằng khiến các cố vấn nguời Pháp sốt ruột nhưng Nguyễn Ánh không còn ở thế tuyệt vọng và bị động nữa.
 1790 Nguyễn Ánh sai Lê Văn Câu đánh chiếùm Bình Thuận nhưng lại bị Tây Sơn đánh tan tác phải bỏ chạy về Gia Định dù vậy những đợt đột kích của Nguyễn Ánh vẫn diễn ra kiên trì và cường độ ngày một gia tăng theo với sựï chia rẽ lực lượng của Tây Sơn
 Như đã trở thành một thông lệ, mỗi mùa gió nồm, Nam quân lại tung ra những đợt xung kích lớn nhỏ dù vẫn chưa đủ lực lượng để giữ đất.
 Cơ hội ngàn vàng để tổng phản công là trong dịp vua Quang Trung băng hà năm Nhâm Tý 1792, hàng ngũ Tây Sơn cực kỳ rối loạn nhưng Nguyễn Ánh vẫn không giám tung toàn lực lượng để khai thác thời cơ. 
 Nguyễn Văn Thành và Nguyễn văn Trương được cử ra đánh phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại trong dịp này. Trên đường rút về, Nguyễn Ánh có ý định chiếm thêm một sô lãnh thổ lùi về phía Bắc như Phan Rang Phan Rí để mở rộng vùng hoạt động nhưng rồi lại thôi vì xét ra không đủ sức cầm cự.

 Thơ của Chaigneau ghi nhận là :
  " Năm ngoái 1797, một lần nữa nhà vua lại mất một dịp ngàn vàng để chinh phục lại toàn thể vương quốc của ông vì anh em nhà Tây Sơn chia rẽ nhưng lại để cơ họi này vuột mất..Său chiến dịch vừa rồi, tôi ngờ rằng nhà vua sẽ chẳng bao giờ lấy lại đuợc giang sơn của mình .."
 Cột trụ của nhà Tây Sơn không còn nữa, tuy nhiên những trận đánh ác liệt để quyết định thắng bại chỉ diễn ra từ 1800. Chaigneau không còn bi quan như hai năm truớc. Thư gửi cho bố vợ là Barisi cũng đang phục vụ Nguyễn Ánh vào tháng 3 năm 1801, Chaigneau hoan hỉ loan báo chiến thắng lớn.



 :"Chúng tôi vừa mới hỏa thiêu toàn bộ hải quân địch, không để chạy thoát dù chỉ là một chiếc thuyền nhỏ nhất. Đây là một trận chiến đẫm máu nhất chưa từng thấy ở Cochinchinois ( Đằng trong). Đối phuơng quyết tử thủ và cầm cự tới giọt máu cuối cùng trong lúc lính của chúng ta chiến đấu anh dũng nên số thương vong cao nhưng không thấm vào đâu nếu so sánh với những lợi ích mà nhà vua có thể thu đuợc từ sau chiến thắng này. Vannier, De Forsan và tôi thoát hiểm an tòan.
 Trước trận này, chưa đuợc chính mắt nhìn thấy tiềm lực hải quân của Tây Sơn, tôi vẫn coi thường bọn họ nhưng tôi đã sai lầm lớn... Tây Sơn có những chiến thuyền trang bị tứ 50 tới 60 súng lớn... Sau trận này, lính Tây Sơn rất nản chí, nhiều người muốn đổi ngũ nhưng không được chấp thuận. Nhà vua cho phép họ được về quê sống an ổn không dính vào chuyện chiến tranh nữa. Sau trận đánh nhà vua vận dụng ngay mọi chiến thuyền lớn để đi thu mua gạo..."
 
 M Barisy, tuy không tham dự trực tiếp nhưng đã thu thập những tin tức về các trận đánh quyết định trong khu vực Quy Nhơn và đã tường thuật một cách tỷ mỷ hơn trong một thư gửi cho giám mục Letondal ở Ma Cao:
 "Người ta nói là Tây Sơn có gửi một sứ giả tới gặp nhà Vua.. chuyện này có thể lắm vì họ đang găp rất nhiều khó khăn và đang phải cầm cự lực luợng của nhà Vua thuộc đạo quân của ông Tien Quaoun (Tiền Quân).

 Tới ngày 21, nhờ những thổ dân miền núi, người ta khám phá ra một đường mòn đủ rộng để voi và súng đại bác có thể di chuyển qua được. Đối phương không hề biết đến con đường này nên nhà vua sai ông Tong Đong Tag (ông Thống Đồn Tả tức là tướng chỉ huy trưởng cánh quân bên trái) mang một lực lượng di chuyển suốt 7 ngày liên tục để đánh bọc phía sau tuyến địch. (Theo Linh mục Cl E Maitre thì đây chính là đại tướng dũng lược Lê văn Duyệt lúc đó đang mang chức Thần Sách Quân Tả Đồn Chính Thống. Thần sách là đội súng đại bác dã chiến cỡ nhỏ để linh động việc di chuyển và đặt trên thuyền nhỏ )
images_0

 Rạng đông ngày 21, phát súng lệnh khai hỏa, lực lượng của Tả Quân tấn công dữ dội tất cả 7 đồn trại tiền trạm để cản đường của địch trong vùng (Dung Thi ?!).
 Khởi sự lúc 7 giờ sáng, đến 10 giờ thì quân Tây Sơn bắt đầu nhận ra là họ đang bị quân của nhà Vua đồng loạt tấn công bọc hậu và từ hai mạng sườn. Một đội súng điểu thương và 20 khẩu đại bác dã chiến hạng nhẹ bắn tầm gần, rất mau chóng đã quét sạch con đường.
 Những kẻ sống sót bỏ chạy lại rơi ngay vào những mũi nhọn của lưỡi lê, gươm giáo. Cuộc tàn sát thật kinh hoàng. Đám lính bản bộ thuộc đội Túc Trực ?? (Theuk Teuk) chỉ cần ở một chỗ để tiêu diệt không còn một mống địch quân nào.
 Sau thảm bại này, bộ tham mưu của Tây Sơn cho rằng cần phải đánh một trận long trời lở đất để lấy lại tinh thần của binh sỹ và dân chúng nên đã tập trung những quân doanh giỏi nhất, những tướng tài nhất để tung ra một cuộc đại phản công.
 Ngày 27 tuần trăng 11 ( ngày 11 âm lịch ?) đại quân Tây Sơn với sự tăng cường một đơn vị của thủy quân được tung vào trận địa, nâng quân số tổng cộng lên tới 223.000 người.
 Quân Tây Sơn có lợi thế là đánh trên đất nhà nên quen thuộc địa thế nhưng nhà Vua không hề nhụt trí nhờ có lực lượng trang bị súng điểu thương, pháo binh dã chiến (hoạt động theo kiểu Tây phương ) và nhất là tinh thần của binh sĩ rất cao.
 Nhà vua (Nguyễn Ánh) gươm tuốt trần trong tay, vẻ vui tươi đi giữa hàng quân. Đám binh sĩ của chúng tôi sôi lên vì nôn nóng.
Phía địch quân cũng bắt đầu rục rịch, đại pháo của họ khởi sự khai hỏa, những con voi trận điên cuồng chạy bổ về phía đội ngũ của chúng tôi nhưng nhà vua vẫn bình tĩnh quan sát trận địa. Yên lặng tuyệt đối bao trùm toàn thể đạo quân.
 Chờ khi quân của Tây Sơn đã lại gần trong khoảng cách nửa tầm súng nhà vua mới cho lệnh khai hỏa.
 Một hỏa lực kinh hồn, 400 sơn pháo thi nhau khạc đạn và chết chóc lên đầu đối phương. Những viên đạn lửa được nhắm chuẩn đích đã tạo nên một cuộc thảm sát kinh hoàng.

XIN VAO CHUYEN MUC TAI LIEU SUU KHAO

DE COI LAI TU KY 1 TOI 11

 

 

KY 13


 Bây giờ nhà vua mới ra lệnh cho lực lượng quân bản bộ mở những đợt xung phong. Các tướng tự làm gương dẫn đầu trong lúc trọng pháo nhắm vào hàng ngũ địch khạc đạn khiếân họ tháo chạy tán loạn và tìm cách ẩn thân trong những chiến hào.
 Nhà vua rất vừa lòng trước chiến thắng còn đám lính thì tuy đã quá mệt mỏi nhưng vẫn tiếp tục cuộc chém giết tới nửa khuya.
 Bây giờ Nhà Vua đóng quân ở một vị trí ngay trong nửa tầm súng của những công sự địch và cho lệnh lập vị trí phòng thủ.
 Ngày hôm sau các tướng tường trình trận địa cho biết là quân Tây Sơn vẫn cố thủ trong các công sự và lực lượng của nhà vua đã cho mở những đợt xung phong đều đặn.
 Nhà vua tay cầm ống nhòm quan sát trận địa, nhận thấy hàng ngũ nơi cánh trái của quân Tây Sơn có nhiều rối loạn. Hơn nữa cánh quân này cách biệt với đạo quân trung ương bởi một con vực sâu nên có thể dễ dàng bị cắt đứt khỏi chủ lực.
 Lập tức một lực lượng 22 tiểu đoàn bộ binh (bataillon, không rõ quân số là bao nhiêu) bất ngờ mở các đợt tấn công. Lúc này gió Tây Bắc thổi khói vào mắt đám quân Tây Sơn ở cánh trái khiến họ chỉ nhïn ra những binh sĩ đang tiến lại gần là quân của nhà vua khi những đợt súng đầu tiên đã khai hỏa.
 Rõ ràng, giữa trận tiền, nhà vua có mặt ở đâu là nơi đó chiến thắng ...
 Phía Tây Sơn đã có 5 quan lớn và viên tướng chỉ huy cánh phải tử trận. Cuộc thảm sát thật kinh hoàng.
 Sau trận này, phía Tây Sơn họp quân sự và các tướng thủy bộ quyết định sẽ sống chết với nhà vua trong một trận thủy chiến đặt dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Thiuu Phoo
 ( theo Cl E Maitre thì chức vụ Thiếu Phó là của Trần Quang Diệu tổng tư lệnh lực lượng Tây Sơn vây hãm Quy Nhơn nhưng hạm đội thì lại do quan Tư Đồ Vũ Văn Dũng chỉ huy trực tiép)
 Chiến trường được Tây Sơn lựa chọn là một hảùi cảng vùng Cù Mông cách Quy Nhơn 20 dặm và một lực lượng quan trọng được tập trung ở đây. Nhà Vua biết rõ kế hoạch này và dự liệu cách đối phó (Đèo Cù Mông nằm trên Quốc lộ 1A, là một trong những deo hiểm trở nhất VN, đèo là ranh giới của 2 tỉnh Binh Dinh- Phu Yen
.Theo sử sách, năm 1471 sau trận chiến giữa Dai Viet Chiem Thanh, người Chăm thua trận nên đã bị mất vùng đất phía bắc từ phia Bac deo Hai van tới đèo Cù Mông, và từ năm 1471 đèo Cù Mông này chính là ranh giới mới giữa Đại Việt va Chiêm Thành cho đến năm 1611


 Trận Thủy chiến tại cửa Thị Nại


thi_nai_1dam_thi_nai

 (Cửa Thị Nại Nằm ở phía Tây Bắc thành phố Quy Nhơn là mọt vũng bể rất lớn dài trên 10 cây số rộng 4 cây số còn gọi là đầm Thị Nại. Tại đảy có một núi lớn tên địa phương là núi Thầy bói . Phía Tây la vùng bán đảo Phương Mai giống như một đại truơng thành bảo vệ thành phố Quy Nhơn vì có nhieu đoạn núi trải dài 15 cây số tới biển.
 Cửa Thi Nai và bán đảo Phương Mai giữ một vai trò chiến lược trong mọi cuộc chiến và từng là cứ điểm quan trọng của quân Tây sơn)


Ngày "Rabbin" 15 của thượng tuần trăng (Theo Cl E Maitre thì chữ "rabbin" là cách phiên âm chữ ngày rằm của Barisi tức là ngày 17 tháng giêng năm 1801), Theo thông lệ binh đội của nhà vua có một cuộc thao diễn thủy qụân và chính qua cuộc thao diễn này nhà vua nẩy sanh những sáng kiến để thành lập thành phần hạm đội tham chiến.
 Nhà vua sẽ đích thân chỉ huy trận này. Dưới trướng có vị chỉ huy trưởng chiến dịch là Đô Đốc Tong Thoui (quan Tổng Thủy là Võ Di Nguy tử thương trong trận này), Ông Yam Koum (Giám quân Nguyễn Văn Trương), một tướng khác nguyên là quân Ngụy về quy thuận ngay khi nhà vua mới ở Xiêm La về. Ông Tong Dons Tag (Thống Đồn Tả chính là danh tướng Lê Văn Duyệt mang tước vị Thần Sách Quân Tả Đồn Chính Thống) và những quan Pháp như Forsan, Chaigneau, Vannier.
 Khoảng 2 giờ 30 chiều, hạm đội nhà vua gồm 91 thuyền mở màn tấn công đại quân Tây Sơn 50 ngàn thủy binh, 45 ngàn quân bản bộ.
 Mặt trời vừa lặn thì hạm đội đã di chuyển vào trong tầm tác xạ của đảo Ong Datte (đảo Ông Đất). Nhà vua ra lệnh cho quan Thống Đồn Tả chuẩn bị cho 1200 người thuộc toán Theuk Teuk ( toán Túc Trực có lẽ là toán xung kích chủ lực ) đổ bộ xuống bãi biển.
 Bẩy giờ tối, dưới sự chỉ huy của quan Phó Túc Trực, cuộc đổ bộ toán xung kích hoàn tất. Trong im lặng tuyệt đối, họ tiến lại rất gần những vị trí súng nặng và khu đồn trại của Tây Sơn mà không bị phát hiện.
 10.30, soái hạm của nhà vua cũng đã lọt trong khỏang cách 1/3 tầm bắn của những đại bác trong đồn phòng vệ đặt ở khu vực cửa sông dù vậy chủ lực này cũng vẫn chưa bị phát hiện.
 Toán tiền phong gồm 62 pháo thuyền (canonier) trang bị đại bác có nhiệm vụ bám sát ba chiến hạm đầu tiên của Tây Sơn để triệt hạ bằng hỏa lực hay tìm cách cắt dây neo để gây hỗn loạn cho toàn hạm đội địch. Gió mạnh và thủy triều đang lên nên rất thuận lợi cho mưu định này.
 Đúng 10.30 ông Giám Quân ra lệnh khai hỏa đồng thời nhà Vua ra lệnh tổng tấn công.
 26 chiếc ghe xung kích có buồm nhưng do người chèo phụ để tăng tốc độ và sự linh động (galeres) bắn liên tục và chính xác lên bãi cát để dọn bãi đổ bộ trong lúc 1200 binh sĩ súng gắn lưỡi lê tiến chiếm những công sự ở bãi biển.
 Sau đó các ghe xung kích tiến gần hơn vào bờ và đồng loạt tấn công như kế hoạch hành quân đã dự định trước.
 Cuộc hỗn chiến trở nên đẫm máu và nhà vua hiện diện giữa trận mạc để nâng tinh thần binh sĩ.
 Lúc này, lực lượng Tây Sơn trong đồn Tam Toi ?? đang nhả đạn kinh hoàng nhằm vào những ghe xung kích. Một ghe bị trúng đạn nổ tan tành, quan Tổng Thủy Võ Di Nguy bị một viên đạn cắt bay đầu.
 Cái chết thảm này làm giao động tinh thần binh sĩ. Lại thêm một xuồng nữa bị chìm. Tả quân liền ra lệnh chém đầu viên thuyền trưởng tại chỗ và ra lệnh tiến đánh những tầu địch đang bỏ neo trong vùng chân núi phía Tây. Lệnh truyền chỉ cần đốt cháy tầu dịch mà không cần tìm cách bắt sống đã được thi hành tức thời trong thận trọng nhưng đầy dũng cảm.
 Trong lúc này, Jam Quoun (Giám Quân, theo Cl E Maitre là Nguyễn văn Trương) sau khi đốt được ba tầu địch ở cửa sông đã thọc thủng tuyến phòng ngự của đối phương khiến lực lượng của ông bây giờ nằm giữa hai gọng kìm của những tầu địch và sẽ tấn công từ phía đuôi. Những ghe phòng thủ Tây sơn lúc này mới bắt đầu chuyển động để tiếp cứu những chiến thuyền vừa bị tấn công quá bất ngờ.

AFrOUBKqQzHOAAAAAElFTkSuQmCC


 Ph
óng dồ hàNH QUÂN

 Đúng lúc này, Lực lượng của ông Giám Quân bị một số pháo của Tây Sơn bắn chặn đầu nên phải phản pháo vào vùng bờ biển mặc dù ở đây cũng có một số pháo của Nguyễn quân. Sự rối loạn này khiến người ta tưởng đã có một vài tướng quân làm phản khiến tinh thần binh sỹ bị giao động mạnh.
 Vì đã tiến quá sâu giữa hai gọng kìm tuyến phòng ngự của địch, có muốn lùi cũng không được nên Giám Quân chỉ còn một lựa chọn đó là tử chiến. Vả lại binh sĩ lúc này hăng máu như một bầy cọp dữ không còn biết gì nữa giữa khói lửa và những tiếng nổ của đại bác.
 Tới 4 giờ sáng thì hầu như mọi tầu địch đều bốc cháy và lúc bình minh, nhiều tầu phát nổ tan tành với toàn thể binh sĩ. Những ghe võ trang nhỏ còn tiếp tục khaáng cự tới 2.30 chiều ngay hôm sau tức là ngày 17-3-1801..
 Tổn thất phía nhà vua khá trầm trọng 4000 người chết nhưng tổn thất phía Tây Sơn còn cao hơn nhiều. Khoảng 50.000 tử thương?. Toàn bộ lực lượng hải quân vĩ đại của Tây Sơn và hạm đội vận tải 1800 thuyền buồm bị tiêu hủy, 6000 đại bác, một số lượng vĩ đại võ khí đạn dược, quân trang, và vàng thoi bạc nén, châu bắu của đám quan Tây Sơn làm mồi cho sóng cả.
 Trận thủy chiến ở cửa Thị Nại nói trên có thể kể là cái dấu mốc đầu tiên về sự sụp đổ của nhà Tây Sơn kể từ sau cái chết của thiên tài quân sự Quang Trung (1792).
 Phía nhà Nguyễn thì đây cũng là một cái mốc khác đánh dấu một chuyển đổi quan trọng. Đó là cái chết bất ưng của Hoàng tử Cảnh.


KY 14


 Cái chết này không những để lại nhiều nghi vấn mà còn làm mất đi cái gạch nối đậm đà giữa Việt Nam và Tây Phương mở đầu cho một âm mưu chính trị làm thay đối toàn bộ vận mạng của Việt Nam.
 Không còn hoàng tữ Cảnh như một trái độn , xung khắc quyền lực giữa các văn quan cai trị và giới võ quan bùng nổ công khai. Gia Long đành chấp nhận vì một mặt đang bận thanh toán kẻ thù bằng quân sự mặt khác phải phó mặc việc quản trị và bình định hậu phương cho các văn quan. Cả hai nhu cầu này đều quan trọng như nhau và đã được Nguyễn Ánh quân bằng khéo léo.
 Thật vậy, nhà Tây sơn kể như chính thức được ghi nhận từ năm 1778 tức là lúc Nguyễn Nhạc xưng vương ở núi Tây (Tây Sơn Vương), lúc đó Nguyễn Anh mới 17 tuổi (Ánh sinh năm 1761).
 Từ đó cho đến ngày đạt được chiến thắng đáng kể đầu tiên ở cửa Thị Nại, Nguyễn Ánh đã đánh nhau với Tây Sơn gần 25 năm. Trong 25 năm đó phần lớn chỉ là một nỗ lực trong truyệt vọng để sống còn và đạt chiến thắng quân sự. Nền móng cai trị hành chánh của những chúa Nguyễn gây dựng từ thời Nguyễn Hoàng kể như hoàn toàn tan rã từ lúc Tây Sơn dấy lên, vì thế, trong lúc Nguyễn Ánh dồn hết tâm trí để chiến thắng quân sự thì ở hậu phương một thế lực mới của những văn quan dần thành hình trong guồng máy cai trị.
 Thời chiến, "Áo nhung trao quan võ từ đây ". Các võ quan tất nhiên gần cận và có uy thế hơn với Nguyễn Ánh, được trao những tước hiệïu lớn lao nhưng trong âm thầm bộ máy hành chánh phôi thai của nhà Nguyễn cũng có một thế lực đáng kể ở hậu phương nhất là những lúc Nguyễn Ánh bận chinh chiến. Thế lực này như nước thấm dần trong đất khô, ảnh hưởng của nó vựơt ngoài sự ước tính của Nguyễn Ánh. Tuy không giám kình chống ra mặt đám võ quan thân Tây Phương nhưng sự ghen tức, của đám văn quan cai trị luôn luôn hiện diện.
 Ở căn bản là một võ tướng dũng lược nhưng Nguyễn Ánh cũng là một chính trị gia tinh tế. Ông hiểu rằng chiếm đất, chiến thắng được đạo quân thiện chiến của Tây Sơn là chuyện khó, càng khó hơn trong việc bình định và giữ đất. Chuyện này, nhất thiết phải cậy đến đám văn quan vốn được huấn luyện trong việc thiết lập một nền móng cai trị trên nền tảng của trật tự khổng giáo.
 Tháng 3 năm Ất Mão 1795, Nguyễn Ánh quyết định năm sau mở kỳ thi Họi , cũng theo lệ tam truờng ngày xưa gồm có thi hiếu biết về kinh sách, thơ phú. Với cách thi cử như vậy tất nhiên cũng sẽ chỉ đào tạo được một lớp quan cai trị hòan tòan xa lạ và đố kỵ với tinh thần kỹ thuật thực tiễn Tây Phương. Đám sỹ phu mới đào tạo này đực hưởng những đặc miễn, lao dịch, miễn binh đao trong thời gian từ 2 đến 6 năm tùy theo thứ bực đạt được sau ba kỳ thi tam truờng. Khoa thi đầu tiên năm 1796 đào tạo đựơc 273 tân khoa đủ hạng. đám trí thức mới này họp với những văn quan Bắc Hà và cả những quan lại của Tây Sơn vễ hàng bắt đẫu hình thành một nền móng cai trị mới theo khuôn khổ Nho Giáo.
 Còn đối với những cố vấn Pháp, ngoại trừ Bá Đa Lộc là người mà Nguyễn Ánh tri ân và kính trọng như một ân nhân, một quốc sư cốt cán, những người khác, trong đó có cả những giáo sỹ, tuy thân cận và vẫn cần đến họ nhưng ngay từ đầu, đây chỉ là một sự cấu kết vì nhu cầu, được duy trì bằng một khoảng cách quân thần và sự ban phát phúc lộc. Ngoài nghĩa vụ giúp Nguyễn Ánh như những người lính Mercenaire họ cũng có những dịch vụ buôn bán, đầu nậu, hoặc xử dunïg uy thế của mình để kiếm tiền riêng.
 Barisi thường chở hàng từ Sàigon mang bán tại Manila, Bahar, Malacca (Singapore ngày nay) hay xa hơn nữa tới những tiểu quốc trong vùng biển ấn Độ hay vịnh Ba Tư và đây là một dich vụ râùt dễ kiếm tiền
 Thí dụ theo Barisi giá gạo ở Saigon là một đồng một "Pikol" ? bán tại Malacca với giá 2 đồng rưỡi. Với tiền bán gạo mang mua sắt ở Malacca giá 8 đồng một Pikol bán ra ở Borneo 18 đồng...
, Đại để là như vậy, cứ theo luật cung cầu một vốn bốn lời. Tiền lời lại mua những thứ cần ở Việt Nam như thuốc súng, diêm sinh làm thuốc đạn, dung cụ và võ khí để gián tiếp bán lại cho Nguyễn Ánh...
 Nguyễn Ánh xử dụng đám cố vấn Pháp vì biết họ có khả năng nhưng ông cũng rất e ngại sức mạnh của Tây Phương, một sức mạnh mà ông chỉ hiểu biết mơ hồ qua một ít những tài liệu, được Bá đa Lộc và các quan Tây dịch lại. Hơn nữa, thái độ ngày một quá khích và những đòi hỏi của các linh mục Tây phương, sự phát triển của các giáo dân như một tập thể áp lực, hiệp ước Versaille, (tuy không được thi hành trong mắt nhìn của Nguyễn Ánh nhưng vẫn là một hiệp ước) là những điều làm ông lo nghĩ.
 Theo những thư của Olivier de Puymane thì Nguyễn Ánh phó mặc dịch vụ này cho các quan Tây miễn là họ chu toàn được vấn đề tiếp vận nhu yếu chiến tranh.
 Phía những người Pháp phiêu liêu sống lưu vong xa tổ quốc này, đôi lúc cũng có những đối trọi quyền lợi cá nhân nhưng chính yếu họ vẫn cấu kết và bảo vệ lẫn nhau như trong một gia đình.
 Bên ngoài cái gia đình này là một màng lưới rộng lớn hơn của những nhà tu truyền giáo thuộc nhà dòng Pháp ở Ấn Độ, Ma cao, Phi Luật Tân vẫn được kính trọng, đứng đầu là Bá Đa Lộc.
Sinh hoạt của những người Au Châu này xoay vần chung quanh cái nhân chính yếu đó là một ông hoàng thái tử với tất cả những hi vọng và hứa hẹn tốt đẹp trong tương lai, từ việc truyền đạo tới những phúc lộc vật chất hiện tại hay khi chiến tranh chấm dứt.
 Phía hoàng tử Cảnh cũng vậy, tuy sau này đã được Việt hóa, được huấn luyện để trở thành một thiên tử Đông Phương nhưng quốc sư Bá Đa Lộc và những cố vấn Pháp đã trở thành một thứ gia đình riêng, tạo thành một nhóm quyền lực riêng, được ông hoàng trẻ dành những cảm tình đầy trìu mến và bảo bọc hết mình.
 Thư của Barisi (bố vợ Chaigneau) không chỉ hé lộ những chi tiết hiếm hoi về giờ phút lâm chung của Hoàng tử Cảnh mà còn cho người ta biết về cuộc chiến không ngừng nghỉ để dành quyền lực vẫn âm thầm diễn ra giữa một phía là những võ quan thân Tây Phương, có thiện cảm với Công Giáo, tâm phúc của Hoàng tử Cảnh vàø một phía là đám văn quan trong guồng máy cai trị đang thành hình và lớn mạnh theo những lãnh thổ mới dành lại được của Tây Sơn.
Những âm mưu dành ưu thế chính trị này không phải đợi tới thời Minh Mạng mới xẩy ra, trái lại, đã có ngay từ lúc Nguyễn Ánh chuyển ngược được thế cờ và là động lực chính đưa đẩy một hoàng tử vô danh (nhưng giỏi văn chương) là Nguyễn Phước Đảm lên ngôi thiên tử sau cái chết tức tưởi của hai người con lớn của Nguyễn Ánh.
 Đám văn quan, tuy không có thế lực nổi về mặt quân sự và có vẻ lép vế nhưng lại nắm giữ những vị trí cai trị quan trọng từ cao cấp tới hạ tầng trong lúc Nguyễn Ánh liên tục trong 25 năm qua chỉ chú tâm vào nỗ lực quân sự.
 Dù là một võ quan anh dũng và đảm lược nhưng có lẽ hơn cả Nguyễn Huệ, Nguyễn Anh xuất thân từ cửa Chúa, và khi lưu vong ông đã đủ lớn khôn (15 tuổi) để hiểu thế nào là một nền móng cai trị thế quyền và sự quân bằng chính trị trong một quốc gia.
 Với đà chiến thắng và thêm đất đai chiếm lại của Tây Sơn, cũng là nhu cầu bình định, cai trị và chuẩn bị hậu cần để yểm trợ cho nỗ lực quân sự.
 Cuộc xung đột văn võ ngày một căng thẳng.
 Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, người ta đang tìm cách triệt hạ tay chân của ông hoàng thân Tây Phương và những võ quan. Con mồi đầu tiên là chính bốâ vợ Chaigneau.
 Trong lúc nhà vua ở xa và hoàng tử Cảnh đang hấp hối, Barisi bị thanh trừng, bị tố cáo là âm mưu đầu độc mộât thuyền trưởng Bồ đào Nha để sang đoạt tiền bạc và tiếm lạm quà biểu xén quan địa phương.
 Thế lực của đám quan cai trị có lẽ không nhẹ như cái vỏ bên ngoài vì nên nhớ Barisi không chỉ là một bầy tôi đắc lực của Nguyễn Ánh (đặc trách việc liên lạc với Macao và Manila để thu mua võ khí, tầu bè và tiếp liệu chiếân tranh) mà ông còn là bố vợ của Chaigneau một cột trụ quân sự của Nguyễn Ánh.
 Dù có một tư thế như vậy mà người ta giám đóng gông bỏ ngục Barisi và trong lá thư gửi giám mục Letondal, Barisi đã hàm ý nói đến cả một âm mưu chính trị đằng sau việc hãm hại ông ta dù không thể nói rõ được.
 Những âm mưu này trong một số chi tiết khác như hé lộ là có thể đã có cả âm mưu của người Bồ đào Nha trong viêïc kín đáo móc nối với quan Annam để loại người Pháp như lời phát biểu của thuyền trưởng Tây Ban Nha:
"Phải thay thế Barisi nếu không thì trong 3 năm nữa người Anh sẽ đuổi hết chúng ta khỏi nơi đây...?.?.!!".
 Nhiều tư liệu của hội truyền giáo Paris cho thấy có việc người Anh đang tìm cách để độc chiếm thị trường Cochinchine. Nguyễn Ánh có vẻ thuận cho những liên hệ này. Hoàng tử cảnh trước khi chết là người từng duy trì những thương thảo với Madras (thủ đô của tiểu quốc Tamil Nadu, Ấ n Độ thuộc Anh) .
 Nhà dòng Pháp chia rẽ trong vấn đề này. Những người Pháp đang ở Việt Nam tìm mọi cách chống đối lại chuyện làm ăn với người Anh nhưng những người Pháp ở Macao (M Letodal đầu nậu những dịch vụ thu mua với Nam Hà) lại thuận cho chuyện này.
 Những yếu tố chánh trị này có liên quan gì đến cái chết của hoàng tử Cảnh hay không thực khó có thể phân định vì lý do an ninh Barisi đã không giám mô tả rõ ràng do đó còn phải chờ đợi thêm những tiết lộ khác về chuyện này.
 Tuy nhiên Barisi có nói đến một vài bí ẩn quanh cái chết của hoàng tử Cảnh.
: Tôi đã được cai ngục cho biết những bí mật không thể viết trên giấy trắng mực đen... đại để đây chỉ là một âm mưu chính trị của những quan lớn trong "hội đồng".
 ..Tôi phải ngừng lại một chút ở đây vì nỗi đau đớn của tôi đã đến tận cùng, phải định trí lại mới có thể kể hết chi tiết của sự việc.
 Trong lúc vua cha vừa đạt chiến thắng Ngụy quân thì vị thế tử nổi dòng cuả ông là Hoàng tử Cảnh đang vật vã đau đớn trên giường bệnh. Dường như thái tử chỉ còn chờ đợi tin chiến thắng của phụ hoàng để nhắm mắt lìa đời trong toại nguyện.
 Vị hoàng tử non trẻ giữa tuổi hoa niên nhân từ và tốt lành, thần tượng của toàn dân, người mà toàn thể vương quốc Cochinchine này đặt để niềm kỳ vọng tha thiết nhất... và cả của người Au Châu nữa vì Thái tử từng công bố sẽ bảo vệ mọi người Âu Châu khỏi những bất hạnh hay hiểm nguy trên xứ Cochinchine. Ông là người mang phước hạnh, một người bạn chân thành đã bảo vệ cho đức tin tôn giáo của chúng tôi ....

KY 15


 Thư của Barisi cũng cho người ta thấy là mối giao tình giữa Hòang tử Cảnh và những quan người Pháp rất sâu đậm, thân thiết, vượt xa những quan hệ công việc:
 " Lần này thì hết hi vọng... không có nhà vua mà cũng không có Hoàng tử. (Bá Đa Lộc cũng đã qua đời 2 năm trước) Hoàng tử bây giờ đang ở trong một tình trạng cực kỳ nguy kịch dù vậy ông vẫn gặng hỏi mãi là Barisy đã đi chưa ?.... không ai dám trả lời... Hoàng tử lập lại ba bốn lần như vậy.. Có một đứa nhỏ 10 tuổi đứng hầu khóc mà thưa với hoàng tử rằng... người ta vừa mới đóng gông và cùm xích Barisi chỉ vì Thái tử và Hoàng thượng thương ông ta.
 Nghe nói vậy hoàng tử lên một cơn thịnh nộ ghê gớm, ra lệnh gọi ông Tan Quoun và truyền những mệnh lệnh kinh hoàng..?
(Tán quân?.. tả quân ?..trong thư chức vụ này được Barisi gọi là thủ tướng của thái Tử ?? "Son premier ministre". Phải chăng tuy chưa lên ngôi nhưng Thái tử cũng có một cơ chế quyền lực riêng).
 ...Suốt đêm đo,ù trong cơn mê sảng Thái tử gọi luôn miệng kêu tên chúng tôi. Ngài còn kêu tên phụ hoàng để gửi gấm chúng tôi... rồi biểu gọi ông Liot cầu nguyện cho ngài... rồi thăng vào lúc 4 giờ sáng....
 Thư của Barisi còn kéo dài một đoạn thống thiết than thở cho số phận của Hoàng tử Cảnh. Đặc biệt có một câu hàm ý khó hiểu đó là việc ví cái chết và số phận bi thảm của hoàng tử Cảnh với vua Louis VVI là người đã bị đem chém đầu sau cuộc cách mạng Pháp:
 "Ôi vị hoàng tử yêu quý và bất hạnh.. đã lưu lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm về số phận không may của đức vua Louis XVI ..."
 Chi tiết này phải chăng muốn nói đến một âm mưu hãm hại ông hoàng trẻ. Rất tiếc Barisi là một người ít học nên những lá thư của đương sự, mặc dù tràn đầy chi tiết sống động nhưng cũng cực kỳ bí hiểm vì đầy lỗi chính tả và cú pháp. Sự lý đoán về cái chết của hoàng tử Cảnh qua sự mộ tả đầy cảm xúc của Barisi vì vậy càng tạo nên nhiều nghi vấn.
 Một số chi tiết rải rác trong lịch sử cho rằng hoàng tử Cảnh chết vì bệnh sốt lên ban, nhưng không nói rõ những triệu chứng bệnh lý để hiểu rõ hơn về cái chết này.
 Tuy nhiên cách trình bầy của Barisi cho người ta cái cảm giác mơ hồ là có thể đám quan thủ thành khi Nguyễn Ánh bận đánh nhau ở xa đã gián tiếp bỏ chết ông hoàng vì không hề thấy nói đến nỗ lực chữa bệnh hoặc sự quan tâm đặc biệt nào đến tình trạng sức khỏe của vị thái tử yêu quý nhất và cũng uy thế nhất của xứ Nam Hà.
 Tất nhiên đây chỉ là một ước đoán và còn phải đợi thêm những tiết lộ trong kho tài liệu của hội truyền giáo hải ngoại.
 Một chi tiết khác cũng được tiết lộ trong thư của Barisi đó là sự nhắc nhở đến vị hoàng tử thứ nhì của Nguyễn Ánh tên là hoàng tử Hi ( ). Theo L Cardiere của hội truyền giáo Paris thì vị hoàng tử này sinh năm 1782
 Tháng 6-1799 sau khi trên 10.000 quân Tây Sơn tử thủ Quy Nhơn ra hàng, đất khởi nghiệp của Tây Sơn rơi vào tay Nguyễn Ánh, hoàng tử Cảnh và hoàng tử Hi đều còn sống.
 Trước khi mang đại quân tham dự chiến dịch Quy Nhơn, Hoàng tử Hi lúc đó 19 tuổi được Nguyễn Ánh giao chức vụ chỉ huy hậu cứ toàn vùng Sài Gon và Hậu Giang danh hiệu là quan Lưu Tuần (Barisi phiên âm là Leou toune).
 Tới đầu năm 1801, chỉ trong khoảng thời gian 2 tháng đột nhiên xẩy ra một loạt các biến cố, từ việc Barisi bị hãm hại tới việc thành Gia Định bị quân phá hoại phóng hỏa nhiều nơi. Các kho chứa gạo, kho tơ lụa và vải vóc, tư dinh của Nguyễn Ánh nhất là tư dinh của hoàng tử Cảnh bị đốt ở nhiều vị trí. Người ta nghi là do điệp viên của Tây Sơn xâm nhập nhưng không thể biết chắc. Nói chung thì tình trạng rất bất ổn, hoang mang trong lúc Nguyễn Ánh còn nán lại để lo việc ổn định tình hình quân sự Quy Nhơn như thấy trong thư của Barisi hồi tháng 4-1801 ghi nhận:
 "Chúng tôi mong tin nhà vua vì mọi người ở đây từ binh tới dân đều nôn nóng, lo lắng cùng cực. Bọn giặc có ở Gia định những nội gián nằm vùng bí mật thỉnh thoảng lại loan truyền tin thất thiệt làm dư luận dân chúng rất hoang mang ."
 Giữa lúc này lại thêm những bí ẩn về những cái chết nối đuôi nhau của hai người con lớn của Nguyễn Ánh.
Hoàng tư Cảnh chết trước (ngày 20-3-1801), tiếp ngay sau đó hai tháng hoàng tử Hi cũng qua đời ngày 21-5 1801. Không có chi tiết rõ ràng nào về cái chết của Hoàng tử Hi hay phản ứng của Nguyễn Ánh về những cái chết này.
 Những trùng hợp dồn dập này khiến chính Barisi là người thân cận nhất của hoàng tử Cảnh lúc đó cũng không hiểu nổi và đã phải than thở: "Tất cả những biến cố đó đã diễn ra chỉ trong 8 ngày !!!"...
 Điều đáng ghi nhận là giai đoạn này thế lực của người Pháp đang suy giảm mạnh ở Nam Hà. Phần lớn người Pháp trong độâi quân hổ lốn mà Bá Đa Lộc tuyển dụng lúc đầu đã bỏ đi từ sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Số trung kiên còn lại chỉ có non 10 mạng. Vai trò cố vấn của họ tuy vẫn đắc dụng nhưng không còn quan trong sinh tử trên phương diện quân sự nữa. Cuộc chiến đã ngẫu nhiên tạo được một số cấp chỉ huy quân sự Việt Nam trưởng thành trong khói lửa, có đảm lược và có khả năng thực sự. Đám người này bắt đầu tạo một truyền thống và một kỹ thuật tác chiến mới pha trộn giữa Đông và Tây khiến những kinh nghiệm của cố vấn Pháp không cần thiết nữa.
 Ở trận Thị Nại năm 1792 người ta còn thấy một J M Dayot đột xuất tấn công đốt nhiều thuyền Tây Sơn nhưng cũng tại địa điểm này, trong trận đánh năm 1801, là các tướng Việt Nam Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt. Những tên tuổi này lớn dần theo cuộc chiến trong lúc các quan Pháp chỉ hiện diên tượng trưng.
 Dùy vậy, những cố vấn Pháp vẫn không chịu tin rằng họ không còn được sủng ái nữa và vẫn chờ đợi sẽ có những đền bù từ phía Nguyễn Ánh như thư của Olivier:
 "Chúng ta đã hết lòng hết sức phục vụ đắc lực nhà vua xứ Cochinchine.. làm sao mà ông ta có thể không đền đáp cho những hi sinh đó...."
Bá Đa Lộc và cuộc đầu tư phá sản
 Nhìn lại thành công của Nguyễn Ánh, các sử gia sau này không đồng ý khi nhận định tầm mức quan trọng của những trợ giúp mà Bá Đa Lộc đã mang tới cho Nguyễn Anh.
Tác giả Lê Thành Khôi đánh giá nhẹ những trợ giúp của người Pháp khi cho rằng phần chiến đấu chính là do quân của Nguyễn Ánh nhất là trong giai đoạn cuối của cuộc tranh thủ với Tây Sơn khi lực lượng Nguyễn Ánh đã học hỏi và dầy dạn kinh nghiệm chiến trường.
 Số lính Tây Dương ngay từ đầu vốn rất ít lại là tạp quân nên chỉ có giá trị tượng trưng về phương diện tác chiến. Còn về vũ khi thì cả hai bên đều phải tự gầy dựng lấy qua đường dây Bồ Đào Nha.
 Cả hai phía Tây Sơn và Nguyễn Ánh đều phải tự học hỏi những kỹ thuật tác chiến áp dụng cho võ khí Tây Phương còn về quân cụ thì cũng không thiếu bọn con buôn võ khí đủ mọi quốc tịch kể cả người Tầu. Hoạt động buôn bán võ khí này đã có từ trước trong suốt cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn
 Chapman là một người Anh tới thăm dò đất Nam Hà năm 1778 (4 năm sau ngày Nguyễn Nhạc dấy lên) khi nhận xét vễ thực lực của Tây Sơn cho rằng: "Lực lượng của Nhạc không đáng kể, giá trị quân sự kém, chỉ cần một lực lượng 100 người có kỷ luật là có thể đánh tan toàn bộ lực lượng của ông ta."
 Nguyễn Nhạc cố gạ gẫm Chapman nhờ người Anh giúp nhưng giai đoạn này trong cuộc chiến tranh tay ba, phe Trịnh Nguyễn dồn nén vùng Tây Sơn ở giữa đã biến một khu thương mại sầm uất tấp nập thuyền bè và phong phú về nhữøng món gia vị thịnh thời như đường, quế, hạt tiêu, trầm hương thành một bãi chiến trường tiêu điều, kiệt quệ, không còn hấp dẫn được giới con buôn.
 Vậy mà lực lượng Tây Sơn đã vượt trội lên mau chóng sau khi chiếm được trọn nguồn tài nguyên của xứ Nam Hà nhờ đó 13 năm sau, 1801, trong trận thủy chiến tại cửa Thị Nại Chaigneau ngạc nhiên ghi nhận:
 "Trước trận này, chưa đuợc chính mắt nhìn thấy tiềm lực hải quân của Tây Sơn, tôi vẫn coi thường bọn họ nhưng tôi đã sai lầm lớn... Tây Sơn có những chiến thuyền trang bị từ 50 tới 60 súng lớn.
 Sự bộc phát sức mạnh của Tây Sơn dù vậy thiếu nền móng ở bề sâu vì Nhạc và Huệ không có người chỉ điểm những chiến thuật mới được rút tỉa từ nhừng cuộc chiến liên tục ở Âu Châu, nhất là về thủy chiến và hành quân thuỷ bộ. Nhà Tây Sơn cũng không biết vận dụng đám thương nhân Trung Hoa làm trung gian giao thiệp với những cửa ngõ của Tây Phương như Ma Cao, Malacca, Manilla.
 Mạc Thiên Tứ giúp Nguyễn Ánh càng làm Tây Sơn không thiện cảm với đám người Minh Hương dù rằng người Tầu mới là huyết mạch kinh tế và ngoại thương của xứ Đằng Trong khởi từ cái nhân Mặc Cửu và lãnh địa Hà Tiên.
 Hải quân đại úy Hoa Kỳ John White trong lần viếng thăm Việt Nam năm 1819 (cuối đời Gia Long) đã mô tả rất rõ về vai trò của người Tầu trong sinh hoạt kinh tế đất Gia Định.

 


  KY 16


 Nguyễn Nhạc dù rất muốn giao thương với Tây Phương, dành mọi dễ dãi, nhân nhượng cho người Anh tên là Chapman nhưng cũng không tới đâu vì không có những đại bài Trung Hoa để liên lạc thương mại ở tầm mức lớn, quốc tế.
 Nguyễn Ánh trái lại, sau khi chiếm lại được 3 tỉnh đầu tiên năm 1778 đã cấu kết chặt chẽ với đám người Minh Hương. Ông thu dụng đám quân của Lý Tài và khai thác màng lưới thương mại quốc tế cũng như quốc nội của người Tầu.
 Thư của Bá Đa Lộc ngày 26-7-1779 có nói đến việc người Trung Hoa làm môi giới để Nguyễn Ánh mua hai tầu chở đầy súng đại bác, diêm sinh, lưu huỳnh và đủ loại khí giới đạn dược khác. Chính Bá Đa Lộc là người viết thư liên lạc xin mua toàn bộ hai tầu chiến cụ này và còn đề nghị đám thương nhân này mang tầu giúp xứ Nam Hà đổi lại sẽ được hưởng những đặc quyền thương mại.
 Chẳng thế mà từ tay trắng chỉ khoảng hai năm sau trong cuộc duyệt binh năm 1781 Nguyễn Ánh đã có một lực lượng 300.000 quân, 80 thuyền đi biển, ba đại chiến thuyền Tây Dương.
 Nguyễn Ánh còn có một đường dây mậu dịch và tình báo quốc tế khác đó là những giáo sỹ Tây Phương và sau này là một cố vấn quân sự mà Bá Đa Lộc mang về.
 Lúc khởi binh ơ Long Xuyên năm 1777, Nguyễn Ánh gặp Đỗ Thành Nhân. Nhân vật vô danh này, dưới sự dìu đắt chỉ bảo của nhà tu Bá Đa Lộc mau chóng trở thành một cột trụ chính của Nguyễn Ánh.
 Bá đa Lộc chỉ cho ông ta những kỹ thuật và kiến thức mới của nghệ thuật chiến tranh Tây Phương như việc dùng lựu đạn, làm ống loa phóng thanh để truyền lệnh khi tác chiến, làm thước đo góc...vv..
 Emmanuel một thủy thủ nguời Breton được Bá Da Lộc kết nạp làm phụ tá Nguyễn Ánh chỉ huy một tầu của Bồ và toán lính Pháp lúc cầu viện trở về cuối năm 1789.
 Không thể chối cãi là khi Bá Đa Lộc trở về thì Nguyễn Ánh đã có một chân đứng khá vững ở Đồng Nai. Tình hình biển đổi thật mau lẹ theo chiều hướng thuận lợi cho Nguyễn Ánh trong khoảng thời gian 3 năm từ lúc phải chạy ra đảo Thổ Châu rỗi lưu vong sang Thái hồi cuối năm 1784 tới lúc Bá Đa Lộc đi Pháp trở về 1789.
 Linh mục Castuera cho rằng :
 “Dù là người Pháp không tới thì lực lượng thuỷ bộ của Tây Sơn cũng không thắng được nhà vua vì hai anh em Tây Sơn bất hoà trong lúc thực lực của Nguyễn Huệ còn phải lo chống Tầu.”.
 Không thắng được nhà vua không có nghĩa là ưu thế đã ngả hẳn về Nguyễn Ánh. Chính sự can dự của một nhóm nhỏ những lính đánh thuê phiêu bạt mà Bá Đa LộÏc mang về đã làm lệch đi cán quân lực lượng.
 Người Pháp đã giúp Nguyễn Ánh trong việc xây dựng đồn luỹ, đóng thuyền, trang bị binh đội, huấn luyện nhân sự cho hạm đội và chỉ điều này thôi cũng đủ để giúp Nguyễn Ánh thành công trong những cuộc Bắc phạt sau này.
 Tuy những trợ giúp tiếp theo đó của người Pháp không nhiều như dự tính nhưng sự hiện diện của đồng minh Tây Phương với võ khí và kỹ thuật tác chiến ứng dụng cho các võ khí này đã nâng cao tinh thần binh sỹ và là một yếu tố quan trọng biến một lực lượng tạp nhạp, ở thế thụ động, thường xuyên bị Tây Sơn áp đảo, một ông vua lưu vong tất tưởi mới về nước thành một lực lượng chủ động chiến trường.
 Sự hiện diện của Tây Phương cũng đã làm dân chúng trong vùng Tây Sơn mất tinh thần khiến Nguyễn Huệ phải viết hịch động viên tinh thần dân Quy Nhơn:
 “cho dù loại người đó (Tây Phương) có khéo léo đến đâu đi nữa, tất cả đều có mắt xanh của loài rắn, phải coi họ như những xác chết trôi dạt từ biển Bắc”.
 Tổng số lực lượng Pháp đến với chúa Nguyễn không nhiều chỉ khoảng 360 người trong đó 100 người là những lính đánh thuê tuyển mộ ở Ấn Độ còn lại là những binh sỹ trôi dạt từ Macao hoăc các hải cảng khác hoặc vớt vát từ những chiến thuyền Pháp bị hải quân Anh giải giới.
 Linh mục Jean de Jesus Maria ghi nhận chỉ cần một năm sau ngày Bá Đa Lộc trở về, năm 1790 Nguyễn Ánh có 10 chiếc tầu Bồ đào Nha, một tầu Pháp, tất cả đều là tầu buôn nhưng được cải biến thành chiến thuyền võ trang. Ở Gia định có 140 si quan, 80 binh si Pháp. Số còn lại là lính đánh thuê đủ mọi quốc tịch đến đi bất chợt.
 Một nhân sự quá ít ỏi tuy nhiên trong số này cũng có những si quan có khả năng và kinh nghiệm quân sự thí dụ Olivier Puymanel tên Việt là ông Tín đi tầu Dryade đã chở 1000 khẩu súng mà Nguyễn Vương mua ở Âu Châu về đến Côn Lôn cuối năm 1788. (trước khi Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về nước).
 Nguyên chỉ là một binh nhì trên tầu La Dryade, trốn lại Côn Sơn rồi theo Hồ Văn Nghi phục vụ Nguyễn Ánh. Dù chỉ mới 20 tuổi Olivier rất có khả năng tổ chức, giữ chức tham mưu trưởng pháo binh, ông đã tổ chức cho Nguyễn Vương một trường huấn luyện si quan, mở lò đúc súng và xây dựng thành quách, Puymandel một chuyên viên công binh đã đóng góp không nhỏ trong việc xây đồn luỹ và huấn luyện để thành lập nhiều trung đoàn bộ binh theo tiêu chuẩn Âu Châu. Thành Sàigon là công trình của Olivier Puymanel và T Brun xây dựng theo kiến trúc Vauban.
 Phillip Vanier một sỹ quan hải quân có tài và dầy dạn kinh nghiệâm chiến trường. Ông là một trong số những người Pháp đầu tiên đến giúp Nguyễn Ánh, cùng với đề đốc Jean Marie Dayot đã gầy dựng và chỉ huy hải quân của chúa Nguyễn. Vanier đích thân điều động việc đóng chiến hạm Phi Phượng (Le Phoenix) trang bị 26 đại bác với thủy thủ đòan 300 người bản xứ do ông chỉ huy. Vannier đã đến với triều đình Huế từ 1778 lúc mới 16 tuổi và trở thành bạn thân của Jean Baptiste Chaigneau, được Gia Long ưu ái cho dùng họ vua để cải tên là Nguyễn Văn Thắng và được phong làm Thắng Toàn Hầu
 Chaigneau là một si quan hải quân mới 25 tuổi chỉ huy tầu Long Phi. Chaigneau nguyên là một thủy thủ Pháp bị hạm đội Anh bắt giải giới ở Macao vào năm 1794
 Chaigneau là người đến với chúa Nguyễn chậm nhất (năm 1794) và cũng là người cuối cùng bỏ đi.
 Giống như Vannier, Chaigneau chỉ huy chiến hạm Long Phi (le Dragon Volant), trang bị hòan toàn theo Tây Phương với một hỏa lực mạnh mẽ gồm 32 đại bác.
 Hạm đội tân tiến này đã giúp Nguyễn Ánh chiến thắng vẻ vang ở Quy Nhơn năm 1801 tiêu diệt tòan bộ hải quân Tây Sơn.
 Sau đó, chính hai đại công thần da trắng này đã đóng góp trong các trận đánh quyết liệt ở cửa Thị Nại và chiến dịch tái chiếm Phú Xuân (Huế).
 Năm 1790 Dayot được phong làm Trí Lược Hầu trông coi tầu Đồng Nai và như giáo sỹ Bissachere thì ông ta là chủ tướng và là linh hồn của thủy quân Nguyễn.
 Ngoài ra còn có De Forcan coi tầu Phi Bằng và Barisi lo việc tiếp liệu từ ngoại quốc, y siõ Despiau, Desperles ...
 Thống nhất sơn hà, Gia Long không quên ơn những người bạn da trắng, Vannier và Chaignau được thăng lên hàng quan đệ nhị phẩm (hai lọng) được hưởng một đội vệ binh 50 lính thủ túc. Ưu đãi này kéo dài cho đến hết thời Gia Long...

ky 17

 Một người Anh tới thăm kinh thành Huế năm 1820 đã tỏ sự kính phục trong cách xây dựng thành luỹ, hoăc cách bố trí doanh trại.
 Ông ta cũng tỏ ra rất ngạc nhiên về hiệu năng của công binh xưởng ở thành Huế có khả năng làm những súng đại bác cỡ lớn có thể bắn đạn 64 hoặc 90 pound.
 Người hoạt động tích cực và tận tuỵ nhất vẫn là cố đạo đầy tham vọng Bá Đa Lộc Giám Mục thành Adran (Pierre Pigneau. de Behaine 1741-1799

 Pigneau Bá Đa Lộâc hầu như tự đồng hoá thành một người Việt trong chức vụ ngoại giao đại thần kiêm tham mưu trưởng đồng thời cũng lo quản trị và tổ chức toàn thể chế độ Nguyễn Ánh.
 Theo Finlayson trong tài liệu “Truyền giáo tại Xiêm La và Huế” (mission to Siam and Huế) thì có ít nhất 25 người Pháp làm quan trong triều Nguyễn Ánh. Cũng có tài liệu cho biết con số là 102 người.
 Phần lớn những người Pháp trong đạo quân tình nguyện đều rời khỏi Việt Nam trong khỏang thời gian từ 1794 tới 1795 khi nghe tin bùng nổ của cuộc cách mạng Pháp.
 Khoảng 5 sỹ quan trụ cốt còn nán lại Việt Nam cho đến lúc giám mục Pigneau qua đời năm 1799. Đến 1802 thì còn lại 4 người.
 Varnier và Chaigneau ở lại tới 1809.
 Những trợ giúp của Tây Phương có thể không quan trọng về sức mạnh quân sự tức thời vì lực lượng này chỉ có vài chiến thuyền và 300 quân tạp nhạp nhưng quan trọng ở chỗ họ đã giúp Nguyễn Ánh trong việc xây dựng một quân đội tân tiến.
 Với cố vấn Bá đa Lộc, nhiều kiến thức khoa học Tây Phương đã được du nhập vào Việt Nam như kỹ thuật đóng tầu, chế tạo vũ khí, dẫn thủy nhập điền, xây thành quách, đặt các trạm giao liên để thông tin tức. Đây là những nền móng canh tân quý báu chưa từng thấy trong mối giao dịch giữa Tây phương ngay giữa giai đoạn cực thịnh của phong trào thực dân. Tất nhiên sự trao đổi Đông Tây này sẽ không dừng lại trong thời bình nếu Ba Đa Lộc còn sống cho đến ngày chấm dứt chiến tranh.
 Một ông cố đạo, vài người Pháp phiêu liêu đã mang lại những thay đổi lớn lao ở Viẹât Nam và cái đà này nếu được các vua kế vị Gia Long khai thác thì Việt Nam đã trở thành một cường quốc tân tiến ngay từ thời đó.
Tài liệu của hải quân Mỹ cho thấy vào thời đó Việt Nam đã có một hạm đội khá mạnh và nhiều thuyền của Việt Nam đã tới những hải cảng ở Ấn độ, Trung Đông.
 Sự phát triển lực lượng quân sự của Gia Long, sự du nhập khoa học kỹ thuật Tây Phương, nếu được duy trì trong những triều vua kế tiếp, thì chắc chắn không một quốc gia Tây Phương nào có thể đánh bại được Việt Nam....



Ky 18


 Kỳ phùng đich thủ, cuộc đối đầu

 Ba Đa Lốc Nguyễn Ánh


 Như thông lệ của những người dựng bá nghiệp, Nguyễn Ánh lớn lên trong gian khổ quả là một ông vua lừng lẫy về cả cai trị lẫn quân sự. Lịch sử hẳn sẽ còn khai mở nhiều quyết định sáng suốt của ông.
 Tháng 6 năm 1802, khi Nguyễn Ánh quay về Huế làm lễ đăng quang Hoàng Đế lấy hiệu là Gia Long, Giám mục Pigneau Bá Đa Lộc đã không cố sống thêm một vài năm nữa để nhìn ngắm công trình mà ông đã dành trọn một đời mình thực hiện trong say đắm, tận tuỵ, không thua kém gì việc phục vụ Thiên Chúa trong phương vị một nhà truyền giáo.
 Có thể lúc đầu việc giúp Nguyễn Ánh trong lúc sa cơ chỉ là một dụng tâm chính trị phục vụ cho việc truyền đạo hoặc một cảm tình cá nhân nhưng dù lý do tiên khởi là thế nào thì kể từ khi mang hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, định mạng của nhà tu này đã gắn liền với định mạng Việt Nam, hay chính ông, tự đồng hoá với định mạng Việt Nam.
 Pigneau qua đời cuối năm 1799 sau một thời gian dài bị bệnh kiết lỵ, kiệt lực vì làm việc quá độ và khí hậu khắc nghiệt của miền nhiệt đới tại cửa bể Thị Nại khi theo thuỷ quân của Nguyễn Vương từ Quy Nhơn ra Quảng Ngãi, thọ 58 tuổi.
 Ông được an táng trọng thể tại Gia Đinh gần nhà giảng cũ của giám mục. Tang lễ được tổ chức theo lễ nghi quân cách và được vua Gia Long cho xây lăng để ghi công (Lăng Cha Cả) với lính gác đứng hầu trong một thời gian dài....
 Theo giáo siõ Lefevre xác của Bá Đa Lộc tức Bi Nhu Quận Công được ướp bằng các thuốc thơm, đặt trong một quan tài bằng gỗ quý, để ở nhà quàn ròng rã hai tháng trong lúc chuẩn bị lễ quốc táng. Giáo dân tham dự đông đảo, các quan mặc lễ phục tề chỉnh. Nguyễn vương tỏ ra rất xúc động và các quan theo sau đều có nét mặt trầm mặc. Bà Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, và các cung tần cùng đi tới mộ và đó là một điều từ xưa chưa hề có.
 Đạo cận vệ của Vương 12.000 người vũ khí trang nghiêm với đạo tượng binh trên 100 con voi do chính Hoàng Tử Cảnh chỉ huy kéo theo nhiều cỗ đại bác.
 Đám táng đi từ 1 giờ đêm tới 9 giờ sáng mới tới huyệt. Áo quan được đặt trên kiệu do 80 người khiêng và số người đi đưa lên tới 40.000 người chưa kể dân chúng xem ở hai bên đường. Nguyễn Vương theo lệ Thiên Chúa Giáo ném miếng đất cuối cùng xuống cho người bạn từng chung lưng chiến đấu từ thủa ba đào và đã không cầm được nước mắt.
 Trên mộ có dựng một bia đá lớn ghi công trạng.
 “Nhà thầy họ Bi Nhu, tên là Bá Đa Lộc người nước Đại Tây Dương, lúc nước nhà đang loạn, nhà thầy đóng vai thượng khách của nước nhà.
 Quả nhiên Thầy đem học thức đã thu lượm bấy lâu nay ra áp dụng hữu hiệu cho thực tế. Nhà Thầy lại hết lòng với Chúa những khi vận nước nghiêng ngả chia phôi. Rồi Nhà Thầy được giao phó nhiệm vụ nặng nề là ra nước ngoài tìm quân cứu viện. Trong thời gian ấy, nay đây mai đó không mấy lúc Nhà Thầy được nghỉ ngơi. Hơn hai muơi năm trời khi thì giữ chức tham mưu trong quân đội, lúc giữ việc hành chánh trong các trấn. Những mưu thuật, những cách thức mà Nhà Thầy đã kiến nghị hoặc thi hành đều có thể làm gương mẫu cho đời sau. Cũng vì thế mà nước ta khi ấy đã dần dần có cơ trổi dậy được. Được như thế cũng một phần là công lao của Nhà Thầy...."

 

 07k3NyTAAAAABJRU5ErkJggg==
 Tren mo co dung mot bia da lon ghi cong tran

 Thời điểm 1790 là lúc Nguyễn Ánh thực sự chuyển từ thế thủ sang thế công và đã củng cố được đất Gia Định, thế lực của Bá Đa Lộc cũng bành trướng theo.
 Dù cố che đậy và không giữ một chức quan chính thức nào nhưng rõ ràng giám mục Pigneau đã trở thành một Richelieu trong triều đình Chúa Nguyễn. (Richelieu là tổng giám mục mà tham vọng không thua gì Bá Đa Lộc, ông từng giữ chức vụ ngoại trưởng trong triều đình Louis 13 và quyền hành lấn hẳn nhà vua).
 Cho tới những ngày chót của đời mình, Bá Đa Lộc đã quản nhiệm đủ vai trò từ cố vấn, thầy dậy của nhà vua và thái tử cho đến xây dựng công binh xưởng, ngoại giao, chính sự, hoặc quân sự, lúc làm tướng cầm quân, lúc làm thầy dòng truyền giáo, cuộc đời của ông cố đạo thành Adran này thật ít ai bì được.
 Bá Đa Lộc được sự trọng nể đặc biệt của Nguyễn Ánh và có lẽ ông là người duy nhất giám cằn nhằn nhà vua, bất cứ ai công khai chống lại ông đều bị hạ bệ, các giáo sỹ với sự che chở của ông được công khai giảng đạo mới.
 
 PjxK1eu9PX19fb2YovNrq6urVu3hoSE+Pr6SiQSJpMJbxcs9f8B4umR8eYnbjMAAAAASUVORK5CYII=

 Giam muc quyen uy Richelieu

 

 ky 19

 Với một trợ giúp nhỏ lúc ban đầu cho Nguyễn Ánh, đạt một điạ vị như vậy là một điều mà bao nhiêu nhà truyền giáo ngọai quốc đang thèm muốn nhưng tham vọng của Bá Đa Lộc không dừng lại ở đây, ông muốn buôn hai ông vua một lúc và cái ông vua tương lai từng đuợc ông bế trên tay rèn luyện từ lúc chập chững biết đi mới đích thực là mục tiêu của “Bi Nhu quận công ".
 Chính tham vọng quá lớn lao này đã làm đổ vỡ tất cả công trình mà ông chuẩn bị cho việc truyền đạo và tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng kéo dài cho đến thời Pháp thuộc.
 Chỉ ba năm sau khi Nguyễn Ánh bắt đầu có chân đứng vững ở đất Gia Định, những va chạm về quyền lợi, điạ vị và văn hóa giữa những quan văn cai trị và đám chuyên viên quân sự Tây Phương hoặc các võ tướng bắt đầu manh nha rồi được tiếp sức bởi những âm mưu ly gián của Tây Sơn.
 Người ta đồn giáo sỹ móc mắt người bệnh, nhét bông vào đó và dùng mắt làm ngọc. Việc này thực tế cũng có thể xẩy ra trong kỹ thuật giải phẫu khi một con mắt bị thương không thể cứu chữa được sợ lan sang mắt còn lại. Biết đâu chẳng có một tu sỹ biết nghề y khoa đã biểu diễn một vụ giải phẫu cho bệnh nhân để tạo uy tín và quyền lực như một vài trường hợp tương tự từng đã xẩy ra ở Trung Hoa.
 Một vài tài liệu của Trung Hoa kể lại chuyện của một phụ nữ ở vùng Hongkew bị một cái biếu lớn ở bụng. Bà bác sỹ Tây Phương sau khi khám bệnh cho biết là chữa được rồi lấy ra một con giao rất sắc thản nhiên cắt bỏ cái khối thịt to gần 1/3 người bệnh và bôi thuốc vào đó. Chỉ một tháng sau người bệnh lành mạnh hoàn toàn. Tài trị bệnh thần diệu này làm những thầy thuốc Trung Hoa xấu hổ im miệng hết!
 Các danh y Tầu im miệng trong xấu hổ nhưng sự va chạm quyền lợi này tất nhiên sẽ không dừng ở chỗ im lặng chịu mất thể diện vì thể diện là đời sống của Á Châu
 Trong vụ linh mục Tây Dương móc mắt làm ngọc, một viên quan còn quả quyết đã nhìn thấy tận mắt chuyện này.
 Thật hay giả, điều đáng nói là nó đã được thổi phồng theo một chiều hướng chống Tây Phương. Người ta sau đó cũng bắt được một đồ đảng Tây Sơn, mới phát hiện cả một âm mưu ly gián rộng lớn.
 Một vài người Tây Dương như Boisserard biết chút khoa học cũng đã biểu diễn nẹt tia lửa điện, thả khí cầu và ngay cả bắn vài phát súng lục trong điện vua. Đây là những chuyện mà dưới mắt những quan lại Việt Nam là một thái độ khi quân phạm thượng, lố lăng làm rối lọan kỷ cương.
 Người Pháp có thể nghĩ rằng người bản xứ là loại bán khai thiếu văn minh, nhưng nếu họ có thể làm phép phù thủy và tạo ấn tượng mạnh trong lần đầu thì rất mau ngay sau đó người Việt đã tìm hiểu và coi thường liền. Khi sự hoảng hốt qua đi là sự chỗi dậy của kiêu hãnh và chống đối.
 Vụ chống đối quan trọng nhất quay quanh việc tranh giành linh hồn Hoàng Tử Cảnh.
 Các quan trong triều cố gắng kéo vị Thái Tử nối dòng này trong khuôn khổ kỷ cương của văn hoá Việt Nam trong lúc các giáo sỹ đặc biệt là Bá Đa Lộc lại coi ông hoàng bé này như một bảo vật riêng của họ.
 Hãy tưởng tượng hoàn cảnh của Hoàng Tử Cảnh người ta sẽ thấy chuyện ông bị mê hoặc bởi Bá Đa Lộc hoặc đạo Công Giáo là chuyện tất nhiên phải xẩy ra.
 Ngay từ khi ở Pháp về Hoàng Tử Cảnh đã nghiễm nhiên trở thành một thứ con nuôi của Bá Đa Lộc và Thiên Chúa Giáo đã điền vào chỗ thiếu thốn tình thương của ông hoàng bé.
 Vừa về đến Gia Định, ông hoàng tý hon này đã biểu diễn các tư tưởng và hành động mà trong mắt nhìn bảo thủ của các quan với nhiều ngàn năm ảnh hưởng của Khổng Giáo là những hành động quái dị và gây loạn.
 Chẳng thế mà Linh mục Lelabousse đã mừng quýnh lên viết thơ cho Bá Đa Lộc nói:
 “Lòng sùng kính của cậu đối với đạo ngày càng phát triển, ở Nam Hà cũng như lúc ở Pháp, cậu tiếp tục cho thấy nhiều hi vọng".
 Lìa xa cha mẹ từ thơ ấu để bước vào một cuộc phiêu lưu đầy biến cố dị kỳ, cậu bé đã đi qua Ấn Độ với những lễ nghi những hình tượng kỳ bí của đạo Bà La Môn và đạo Phật, ở Pháp với những lâu đài cung điện nguy nga tráng lệ, những buổi tiếp tân để chào món hàng hoàng tử Đông Phương phiêu lưu. Đám thượng lưu Pháp thời đó làm cả những bài thơ, bài nhạc về ông hoàng bé phiêu lưu. Tất cả những biến cố này thật qúa mãnh liệt đối với trí óc non nớt của Hoàng Tử Cảnh.
 Trở về Gia Định, Cảnh đã 7 tuổi, trước cảnh nghèo nàn của quê hương, trong buổi giỗ lễ tổ tiên, Cảnh nhất định không chịu vái lạy, còn nói: “ ông bà là quỷ sứ, ông bà chết rồi không về hưởng được."
 Chưa hết, Cảnh còn vẽ hai thập tự trên tượng Phật của Hoàng Hậu và chỉ cho bà mẹ cách trét phân bò vào tượng Phật và nói là đã thấy một giáo phái nào đó làm như vậy ở Ấn Độ. Ở Ấn Độ bò là vật thiêng, trét phân bò lên hình tượng có thể là chuyện có thật và chính cậu bé đã nhìn thấy.
 Cảnh ngạo mạn ví mình cũng như Thích Ca đều phát xuất Ấn độ. Lúc 8 tuổi Cảnh nói sẽ chỉ lấy 1 vợ vì “Thiên chúa đã tạo bao nhiêu đàn ông thì có bấy nhiêu đàn bà.”
 Sáng tối Cảnh lẩm nhẩm đọc kinh và còn nói:
 “tôi không muốn làm vua, nếu không vì có ý định làm cho cả dân tôi trở lại đạo thì tôi chỉ muốn về Pháp ngay...”
 Thái độ mê đạo cuồng tín này thật không có gì lạ trong trí óc đầy mộng tưởng của cậu bé 8 tuổi nhất là với sự thay đổi đột ngột khung cảnh sống và giáo dục, từ những lộng lẫy xa hoa của triều đình Pháp, của xã hội thượng lưu tại Paris đầu thế kỷ 19 tới cái triều đình tạm bợ nghèo nàn của chúa Nguyễn trong thời chiến.


 

 

 Ky 20


 Sử không nói rõ nhưng cũng có thể ước đoán là lúc về nước Hoàng Tử Cảnh phải nói khá thông thạo tiếng Pháp và tình thương của ông với Bá Đa Lộc còn hơn cả cha mẹ ruột.
 Triều đình nhà Nguyễn không những hoảng hốt mà tất nhiên cũng thấy gai mắt khó chịu. Nguyễn Ánh cũng bực tức nhưng cố trấn tĩnh vì nể vì và đang cần Bá Đa Lộc.
 Để giải quyết, theo đề nghị của triều thần, Nguyễn Ánh quyết định tách Hoàng Tử Cảnh khỏi ảnh hưởng của Bá Đa Lộc.
 Tháng 4-1793, Nguyễn Ánh phong Hoàng Tử Cảnh làm Đông Cung Thái Tử, sai xây trường riêng cho thái tử, đặt đông cung phụ đạo Ngô Tùng Châu dậy Cảnh học theo nền nếp cũ.
 Nhiều thầy giỏi và ngay cả 8 học sinh bạn học gọi là Hàn Lâm Thị Học được cắt đặt trong việc bao vây, phân cách và theo dõi thế giới mới của Cảnh. Mọi hành vi lời nói của ông hoàng bé đều được lệnh phải ghi chép lại để Nguyễn Ánh đích thân theo dõi.
 Cảnh còn quá trẻ để được uốn nắn kịp thời đúng như lời bà Thái hậu:
 “thằng bé mới về chưa được giáo dục theo phong tục ta... để một thời gian sẽ trở lại giống như chúng ta.”
 Chiến thuật của triều đình Việt Nam bắt đầu có hiệu quả khiến Bá Đa Lộc phải báo động:
 "Ở giữa một triều đình ngoại đạo, sống theo quy tắc của các thầy ngoại đạo, xung quanh có các viên thượng thư Satan làm đủ cách để phá hoại sự vô tội của Cảnh".
 Tách con khỏi sự phù phép của Bá Đa Lộc nhưng Nguyễn Ánh cũng đủ khôn ngoan để duy trì cái gạch nối với Tây Phương và ông cũng nhận ra cái uy lực cần thiết của văn minh Tây Dương trong việc tranh thủ với Tây Sơn cho nên vẫn bắt Cảnh phải bái lạy Bá Đa Lộc như một vị phó sư lại ép Bá Đa Lộc đi theo Cảnh trong chiến trận.
 Cuộc đấu tranh tư tưởng bao phủ bên ngoài những va chạm quyền lực giữa quan Việt Nam và quan Pháp trong triều đình vẫn tiếp diễn âm thầm dưới nhiều hình thức.
 Nguyễn Hùynh Đức và Nguyễn văn Thành phạm lỗi hành quân nhưng lại thêm tội ký tên trong sớ đòi tách hoàng tử Cảnh khỏi Bá Đa Lộc liền bị Nguyễn Ánh bỏ tù để lấy lòng giám mục đổi lấy việc Giám Mục tháp tùng hoàng tử đi Diên Khánh.
 Tuy nhiên, Bá Đa Lộc cũng bắt đầu nhận ra sự thất thế của mình, ông không chỉ mất Hoàng Tử Cảnh mà cả Nguyễn Ánh nữa.
 Nguyễn Ánh vẫn kính trọng, nhớ ơn Bá Đa Lộc, vẫn vấn kế, học hỏi những sách vở Tây Phương, áp dụng những hiểu biết Tây Phương trong việc tổ chức binh đội, xây thành quách, đường xá, chế tạo vũ khí nhưng ông không nhượng bộ trong vấn đề tinh thần, nhất là tiếp tục chống cự kịch liệt những gì va chạm đến trật tự xã hội trong khuôn khổ Khổng Giáo vì trật tự này cần thiết để củng cố vương quyền tuyệt đối của một thiên tử (con trời).
 Khi Nguyễn Ánh ra lệnh cho trùng tu lại Văn Miếu, các linh mục họp lại xui linh mục Hồ văn Nghị (có công giúp Nguyễn Ánh từ phút đầu) đi cửa hậu dèm tấu với Hoàng Hậu.
 Nguyễn Ánh dẹp đi nói rằng đây là hành động trả ơn những người đã sáng lập dậy dỗ đạo lý và kiến thức cho con người. Các linh mục không chịu thua vận động giáo dân cương quyết không đóng góp khiến cuối cùng Ánh cũng phải thúc thủ . Chuyện này bắt đầu cho thấy uy quyền thiên tử đã bị thách đố.
 Từ 1792, tin tức về cuộc cách mạng phản đế ở Âu Châu (1789) lọt vào tai Nguyễn Ánh qua bọn lái buôn người Bồ làm Ánh bắt đầu nghi kỵ người Âu. Giáo sỹ Lavoué nhận ra điều này nên đã viết cho Bá Đa Lộc:
 “Hình như tin ấy có ảnh hưởng mạnh đến đầu óc của ông Hoàng và làm ông xa rời người Âu. Ông ít dễ dãi với đạo hơn so với những năm trước."
 Thời Trịnh - Nguyễn-Tây Sơn là giai đoạn suy tàn nhất của mọi tôn giáo, không chỉ Thiên Chúa Giáo mà cả Phật Giáo nữa. Nhu cầu chiến thắng kẻ thù và củng cố quyền lực vượt lên trên tất cả. Nhà Tây Sơn từng bắt sư đi lính, làm lao dịch, phá chùa lấy chuông đúc súng. Trong Nam Nguyễn Ánh phạt đánh 100 roi những ai mang tượng Phật vào phòng hoàng hậu. Nguyễn Ánh đòi giết một nhà sư phạm tội. Có người can ngăn nói đó là vị chân tu, Nguyễn Án thản nhiên trả lời: “chân tu thì có ích gì cho nước".
 Đám binh tướng Tây Sơn về đầu thú cũng mang theo một ảnh hưởng coi thường đạo giáo. Bọn văn quan chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hàn Dũ, Trương Hán Siêu cũng mạt sát Phật Giáo. Chính Ngô Tòng Châu thầy của hoàng tử Cảnh từng dâng sớ nói:
 “Cái hại của Phật Giáo, Lão Giáo còn hơn Tây Dương nữa"
 Riêng Khổng Giáo vẫn được trọng vọng và đó là chuyện tất nhiên trong mọi thời loạn lạc. Phải chăng Không giáo đã xuất hiện trong thời Xuân Thu Chiến Quốc vào giai đoạn cực kỳ hỗn loạn của xã hội Trung Hoa và những nguyên lý của nó vẫn còn đúng trong thời tao loạn Trịnh - Nguyễn.
 Gọi là khổng Giáo nhưng đúng ra nó là Khổng Đạo, là con đường xây dựng một xã hội trật tự dù cái trật tự thế quyền đó có thể đồng nghĩa với việc hi sinh quyền sống bình đẳng của mọi con người (như chủ trương của giáo lý Ky Tô) nhưng nó rất cụ thể và tạo hiệu quả tức thời ở đời này. Nó củng cố uy quyền của nhà vua, trải xuống những người cầm cân nẩy mực pháp luật, các khối óc của bậc trí giả và những đơn vị gia đình. Trật tự quân sư phụ của Khổng Giáo đã thành máu huyết của người dân từ nhiều ngàn năm thể hiện trong bình dân bằng những câu truyện kể, những châm ngôn giáo điều. Việc khai thác Khổng Giáo để củng cố vương quyền, vì vậy, dễ dàng hơn và không gây rối loạn.
 Thái độ của Nguyễn Ánh bắt đầu thay đổi, ông đi lễ chùa lạy Phật, xây dựng nhiều Khổng miếu và cũng kháng cự lại Bá Đa Lộc lộ liễu hơn....


 

KY 21


 Trước đó trong lần Hoàng Tử Cảnh không chịu lễ lạy tổ tiên, Nguyễn Ánh chịu nhục trước bá quan đã phải lễ thay con, ông chỉ gặp Bá Đa Lộc để phàn nàn:
 “Sao Thiên Chúa Giáo dậy tín đồ quên ông bà"
 Bá Đa lộc cãi lại:
 “Ở xứ này, thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ và phù hộ con cháu sống lâu, giầu có, tin tưởng này ngược lại với đạo của ông.”
 Nguyễn Ánh luận lý cãi lại rất chính xác cho rằng cúng tế chỉ là cách biểu lộ lòng nhớ ơn tổ tiên.
 “khi tôi đến những chỗ lễ đó, tôi nghĩ như tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền đáp công ơn. Để chứng tỏ sự chân thành và hành động có hiệu quả, tôi muốn làm ngay bây giờ những điều như khi tổ tiên tôi còn sống. Tôi biết họ không còn nữa và những điều tôi làm không ích lợi gì cho họ cũng như cho tôi nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết là tôi không quên họ."
 Cái ý niệm về sự liên tục truyền giống này được nhìn như mê tín, bán khai trong mắt của ông cố Bá Đa Lộc thực ra là một yếu tính bản thể mà chính Thượng đế hoặc Thiên Chúa đã ban cho mọi sinh vật từ đó nó mở lên thành gia đình, xã hội và quốc gia. Nó cũng là cõi nguồn của mọi tôn giáo, là nỗi khắc khoải tìm về cái cõi nguồn của vũ trụ. Sự thể hiện càng mạnh thì ý niệm quốc gia nòi giống càng vững chắc.
 Tuy nhiên, giai đoạn giáo điều của nhà thờ La Mã lúc đó đã tôi luyện trong những linh mục truyền giáo một sự cuồng tín, dị đoan còn hơn cả Nguyễn Ánh nữa. Nghĩa vụ rao giảng giáo lý Ky Tô của những linh mục thời đó kết quả chỉ là sự chuyển hoá, nguỵ trang của chính những tham vọng cá nhân, những thế lực của các nhà dòng khác biệt. Nói đơn giản, nó trở thành cuộc chơi của những băng đảng tôn giáo không ngừng dành thế lực mà vẫn tin rằng mình đang phục vụ Chúa.
 Bá Đa Lộc đòi bỏ hết mọi nghi lễ từ ngàn năm của người Việt như việc cúng giao thừa rước tổ tiên, việc đốt vàng mã, thờ thần tượng mặc dù chính ở trung tâm của giáo quyền La Mã cũng đầy rẫy những hình thức thờ phụng thần tượng, cầu hồn, cầu xác.
 Nguyễn Ánh nói với Bá Đa Lộc:
 “Tôi đã cấm phù thuỷ, (dù Chúa cũng làm phép lạï), cấm coi thiên văn, coi đạo thần tượng là xấu (nhà thờ Công giáo cũng đầy thần tượng).... Nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà, vì theo tôi đó là căn bản phong tục xứ tôi...”
 Nhìn vào cách trả lời của Nguyễn Ánh người ta thấy ông ôn hoà và sáng suốt hơn thái độ cuồng tín của Bá Đa Lộc rất nhiều.
 Cuộc tranh thủ tư tưởng vẫn tiếp diễn giữa hai người nhưng không thễ bùng nổ to thành một cuộc đối đầu trực diện vì cả hai đều có những nhu cầu hỗ tương của việc truyền đạo và sự yểm trợ của Tây Phương. Họ áp lực nhau rồi lại làm lành.
 Thơ của Boisserand kể lại những điều Nguyễn Ánh đã nói với Bá Đa Lộc và cho rằng: “nếu tiếp tục bài bác việc thờ phụng tổ tiên thì sự thù hằn càng tăng và mê tín càng vững chắc"
 Nguyễn Ánh nói với Bá Đa Lộc:
 “Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn phúc danh vọng cho ông nhiều rồi !!!!... sao ông không chịu lạy những đấng khuất của ta... ông không từng lậy các thánh của ông hay sao.... Họ cũng đã chết cả rồi không trở lại nữa.... Ông có muốn ta gửi ông đi Xiêm để Phật Vương bắt lậy Phật không...”
 Các giáo sỹ tuy chống đối việc “lậy xác” nhưng cũng có lúc phải nhận rằng chính ở Pháp, Vua chết đi được khâm liệm, bầy thức ăn vài ngày mà không bị coi là mê tín.
 Bá Đa Lộc cũng bắt đầu thấy rằng ông cần mềm dẻo hơn nếu không muốn tạo một đổ vỡ không hàn gắn được với Nguyễn Ánh.
 Tết Đinh Tỵ 1797, Bá Đa Lộc đến chúc tụng đầu năm, Nguyễn Ánh ngỏ ý nhờ Bá Đa Lộc theo Hoàng Tử Cảnh đi hành quân ở Diên Khánh nhưng Bá Đa Lộc từ chối. Mười lăm ngày sau Nguyễn Ánh lại mời ông đi chơi để nói lại chuyện đó nhưng Bá Đa Lộc vẫn một mực chối từ. Nguyễn Ánh tạo áp lực bằng cách lộ hẳn ý không hài lòng với đạo Thiên Chúa và kể lể là ông đã chịu đựng rất nhiều để đạo truyền bá trong nước cũng chỉ vì ngưỡng mộ và đã chịu ơn giám mục nhưng bây giờ thì phải xét lại vấn đề truyền đạo.
 Cụ thể hoá lời đe đoạ, Ánh lôi một viên quan có đạo ra bắt lậy trước bàn thờ các vị tiên hiền. Bá Đa Lộc đành chấp nhận đi Diên Khánh.
 Có lúc khác Bá Đa Lộc áp lực lại đòi bỏ đi và Ánh lại phải nhượng bộ....
 Thua to nhất của Bá Đa Lộc là vụ Hoàng tử Cảnh. Ông toàn thắng hiệp đầu cho đến lúc Hoàng Tử Cảnh về nước nhưng từ lúc bị tách rời ra cho các quan Việt Nam giậy dỗ, ông hoàng bé 8 tuổi này đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng Việt Nam.
 Đi Pháp cầu viện khoảng 1782-1783 lúc dó Hoàng Tử Cảnh mới 3 tuổi vào năm 1798 đã là một tráng niên khoảng 17 hay 18 tuổi.
 Sau một thời gian bị tách khỏi Bá Đa Lộc chính Cảnh đã thay đổi nhiều, ông xin được soạn sách truyện các bậc trung thần để người đời học hỏi nghĩa trung quân. Sự thay đổi của Hoàng Tử Cảnh cũng không có gì đáng ngạc nhiên so với thời chịu sự huấn luyện của Bá Đa Lộc vì cả hai đều xẩy ra vào những giai đoạn nghiêm trọng trong cuộc đời một con người. Giai đoạn ảo mộng ấn tượng ấu thời và giai đoạn đi tìm bản ngã chính mình.
 Những kỷ niệm về sự tráng lệ của kinh thành Ba Lê lúc mới 5 tuối đầu, những lời chỉ dẫn của Bá Đa Lộc về một đấng Chúa toàn năng trên nước thiên đàng mờ nhạt dần đi, trở thành những hình ảnh lẫn lộn giữa thực và mộng thay vào đó là thực tế của triều đình vua cha trong chiến tranh, nghèo khổ nhưng rất thừa uy quyền.
 Xuất thân là con nhà tướng, gian truân lưu lạc từ thủa nhỏ, Nguyễn Ánh cũng huấn luyện con theo chiều hướng tương tự. Ông bắt Thái tử phải có mặt trong những trận đánh quyết liệt để nâng cao tinh thần binh si, để Cảnh làm quen với chiến trận và cũng để học hỏi và ý thức được trách nhiệm của một vị quân vương tương lai.
 Lối huấn luyện này quả hữu hiệu đã biến cậu bé năm nào thành một cấp chỉ huy có trách nhiệm, ý thức rõ về uy quyền của mình và sự linh thiêng của tổ quốc.
 Học hỏi về uy quyền của một quân vương chưa đủ, tuổi dậy thì với những thúc đẩy nổi loạn để tìm kiếm bản ngã của mình, sự thôi thúc của nhu cầu sinh lý trở thành quyến rũ hơn bất cứ điều gì, những thứ đó không những tràn đầy trong cung đình một chế độ quân chủ, mà còn có thể là cả một dụng tâm của những ông quan Việt Nam.
 Thư của Le Labousse cho biết Cảnh quên mau những hứa hẹn sẽ chỉ lấy 1 vợ. Mới 15 tuổi ông ta đã có 3 bà vợ. Lỗi đạo này thật trầm trọng đối với những kỳ vọng mà một ông giám mục bảo thủ đặt vào lá bài của mình.

 KY 22

Các linh mục và cả Bá Đa Lộc rên rỉ trong đau khổ không phải vì ông hoàng đã đi nguợc lại hòan tòan tham vong của họ nhưng chỉ vì họ chờ đợi quá nhiều ở Hoàng tử cảnh. Họ muốn có một hòang đế linh mục mà linh hỗn đã đuợc nắm chặt trong tay Bá Đa Lộc.
 Bá Đa Lộc không còn sống để nhìn thấy lá bài hi vọng nhất của ông và của công cuộc truyền giáo. Hoàng tử Cảnh qua đời vì bạo bệnh.
 Lịch sử nói rất ít về cái chết này, sách Đại Nam quốc sử nói ông chết vì một chứng bệnh sốt lên ban.....
 Cái chết của Hoàng Tử Cảnh, tưởng chỉ là một biến cố nhỏ bên cạnh cái bóng vĩ đại của Gia Long, cũng chỉ được nói đến rất ít trong lịch sử nhưng sự thực nó đã để lại một hệ quả cực kỳ trầm trọng đó là sự tranh dành quyền lực giữa phe thân Tây Phương của Hoàng Tử Cảnh và phe của những văn quan cai trị mà Gia Long muốn vận dụng để củng cố một tân chế độ chưa có nền nếp đồng thời cũng tạo nên một đối trọng với những đại công thần nắm binh quyền trong tay .
 Gia Long là người đủ uy lực để cầm cân nẩy mực và trấn áp mọi phe phái và Hoàng tử Cảnh là gương măt sáng giá nhất có đủ uy tín và thành tích để làm một trái độn giữa các thế lực. Một sự chuyển nhuợng uy quyền êm đẹp giửa hai người này cũng là sự chuyển mình của Việt Nam vào một thế giới kỹ thuật đang lớn mạnh mau chóng ở trời Âu.

 Cuộc đầu tư khánh tận
của ông cố thành Adran.

 Nguyễn Ánh vốn là người rất đa nghi vì ông hiểu rõ điều này hơn ai hết về sự cần thiết phải duy trì một quân bình quyền lực giữa những cận thần . Lịch sử của thời ông sống vốn được mô tả ngắn gọn trong hai chữ "phản nghịch." Một chuỗi liên tục của những phản nghịch lớn nhỏ.
 Trịnh Kiểm phản nghịch nhà Lê, Nguyễn Hoàng phản nghịch họ Trịnh, Tây Sơn phản nghịch chúa Nguyễn.
Nếu chúa Trịnh nếm mùi phản nghịch qua loạn kiêu binh thì các chúa Nguyễn cũng chịu cảnh tương tự với sự chuyên quyền của Trương Phúc Loan.
 Năm 1755 Chúa Nguyễn Phúc Khoát mất không có người kế vị vì các hoàng tử Chương và Hiếu đều đã qua đời từ trước. Đúng ra phụ thân của Nguyễn Ánh là Chương Võ lên thay nhưng lại bị Trưng Phúc Loan bỏ ngục nên uất mà chết.
 Còn Nguyễn Ánh, ngay từ giai đoạn đầu dấy binh chống Tây Sơn ông đã có dịp nếm mùi loạn thần mưu tiếm nghịch.
Năm 1777, Đồng thời với Bá Đa Lộc, Ánh gập Đỗ Thành Nhân (đầu đảng của lực lượng Đông Sơn) và chỉ trong một thời gian cực ngắn với sự phò tá của một số cựu thần Nguyễn Ánh đã đương cự được áp lực của Tây sơn, chiếm lại được Gia Định, tái lập một dòng chúa Nguyễn Lưu vong đưới cờ của Đại nguyên súy Nhiếp Quốc Nguyễn Phúc Ánh .
 Trong 3 năm kế đó, với sự chỉ điểm của Bá Đa Lộc, Gia Định lo củng cố thế lực, tổ chức hành chánh, đánh dẹp Chân lạp, bình định vùng Hậu giang phần lớn nhờ công của Đỗ thành Nhân.
 Ỷ thế lập công đầu và tạo được thanh danh làm Nguyễn Nhạc cũng phải nể vì, Đỗ Thành Nhân sinh ra kiêu căng, tham vọng và hung tàn. Nhân ngầm tuyển mộ thêm vây cánh, gài người vào các chức vụ quan trọng và bắt đầu vô lễ với Nguyễn Ánh, tỏ rõ ý đồ phản nghịch.
 Nửa đêm Ánh tới tìm Bá Đa Lộc để hỏi ý muốn trừ Nhân nhưng giám mục vốn cũng là người nâng đỡ chỉ dậy cho Nhân và lại có hậu ý sử dụng y thị cho việc truyền đạo nên tìm cách thoái thác.
 Được Tống Phúc Liêm dâng kế "trừ giặc cạnh vua", Nguyễn Ánh giả ốm nằm lỳ trong cung khiến các quan văn võ phải vào vấn an. Nhơn hỗn xược, ba ngày sau mới mang vệ sỹ tới, y một mình bước vào phòng Ánh và lập tức bị vệ sĩ xông ra giết chết tại chỗ...
 Nguyễn Ánh không bao giờ quên bài học Đỗ Thành Nhạn này nên từ sau đó ông đã áp dụng triệt để chủ trương đa nghi của Tào Tháo "thà hại người hơn để người hại mình." Để chiến thắng ông cần những tướng quân dũng luợc và những cố vấn và kỳ thuật chiến tranh do người Pháp mang tới nhưng ông không bao giờ tin tưởng tuyệt đối ở những người ngọai quốc này. Sự sung khắc của tư tuởng Thiên chúa giáo với đuờng lối cai trị cổ truyền, tham vọng lãnh thổ của Tây Phương luôn luôn là một mối quan tâm sâu đậm của Nguyễn Ánh 
 Đối với những người Pháp mà cố Ba Đa Lộc mang về, Nguyễn Ánh cho họ hưởng một quy chế khá dặc biệt, nửa bầy tôi nửa lính đánh thuê được trả lương bằng những đặc quyền. Giới nhà tu thì được hưởng sự dễ dãi trong việc truyền đạo, còn đám người Pháp trong quân đội thì được hưởng những dễ dãi trong các dịch vụ trung gian thương mại hoặc thu mua tiếp liệu võ khí cho nhà vua.
 Phần lớn đều được ban quan tước và đổi xử trong một cung cách khác thường, nhiều đặc miễn ưu đãi trong một triều đình quân chủ Á Đông, không phải quỳ lậy và đôi khi như ngang hàng.
 Barisi ghi nhận sau trận đánh tài chiếm Phú Xuân, trở lại thềm nhà cũ mà tổ tiên ông đã gây dựng, Nguyễn Ánh có vẻ xúc động mạnh, buổi chiều sau trận đánh người ta thấy nhà vua thư giãn" thả bộ trên vùng bến tầu và sinh hoạt suốt ngày với Barisi và Chaigneau. dùng cơm trưa và cơm chiều trên thuyền chỉ huy của nhà vua để nghe hai nguời kể lại những chuyện đã xẩy ra trong trận đánh".
 Cung cách cư xử như vậy nếu xẩy ra nơi cung đình thì quả là chuyện chướng mắt đối với những quan An nam. Riêng Gia Long ông có dụng tâm như vậy. Những cố vấn người Pháp đối với ông luôn luôn chỉ là khách lạ, là những phần tử ngoại vi, họ đến rồi đi, nay bạn, mai thù. Đó là những chuyện từng xẩy ra suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh với người Hoà Lan, người Bồ nhẩy vào giúp bên này, giúp bên kia hay làm ăn cả với hai bên. Sự cộng tác với với đám người ngoại quốc dựa trên quyền lợi, không thể đòi hỏi trung thành tuyệt đối và như đã xẩy ra khi một số đông si quan và lính Pháp ào ạt bỏ đi sau cuộc cách mạng 1789.
 Khi Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về đến Vũng Tầu ngày 28-7-1789 cuộc cách mạng Pháp cũng vừa bùng nổ. Tình thế Âu Châu và nước Pháp đã hoàn toàn biến đổi. Với bản tuyên ngôn nhân quyền, lần đầu tiên nhân loại được nghe nói đến quyền làm người trong bình đẳng và tình huynh đệ và cái chấn động của nó đã làm rúng động những nền đế chế Âu Châu đưa đến một cuộc chiến tranh hậu cách mạng giữa phe bảo hoàng của các quốc gia lân cận và phe cách mạng Pháp.....


KY 23


 Cách mạng thấm dần đến cả những nguời Pháp phiêu liêu đang lang bạt ở xứ Annam với một vẻ quyến rũ đầy lý tưởng nên khi cuộc chiến tranh phản cách mạng bùng nổ đa số đều muốn trở về.
 Tới khoảng 1794 thì hầu hết đám lính đánh thuê này đều đã bỏ đi, ngoài số nhà tu, chỉ còn lại khoảng 10 người trong quân đội.
 Đối với Nguyễn quân thì như vậy cũng đủ rồi, năm năm trời học hỏi tác chiến bằng kỹ thuật Tây Phương đủ để đào tạo cho Nguyễn Ánh những cấp chỉ huy quân sự thực sự có tài và đảm lược. Với những người như Lê văn Duyệt theo phò Nguyễn Ánh từ lúc 15 tuổi trở thành danh tướng Thần Sách Tả Quân hay một Võ Di Nguy, một thủy sư đô đốc giám quân Nguyễn Văn Trương đánh trận nào thắng trận đó.
 Trận đánh cuối cùng còn ghi nhận sự đóng góp tích cực của người Pháp cũng là trận đánh lớn đầu tiên ở cửa Thi Nại trong đó Dayot đánh đắm được 7 tầu Tây Sơn.
 Kể từ sau đó, trong các trận đánh quyết định ở Quy Nhơn tháng 2-1801 hay trận tấn công tái chiếm Phú Xuân (9-6-1801), trận phá quân Nam tiến của Quang Thùy ở cửa Nhật Lệ và Lũy Thầy, và cuộc Bắc Tiến chiếm Thăng Long, các thuyền do người Pháp chỉ huy đều đựơc cho lui về phía hậu quân hoặc lo việc tiếp vận.
 Nguyễn quân trưởng thành trong khói lửa đã học hỏi qúa đủ từ những cố vấn Pháp và bây giờ còn vượt trội hơn thầy vì thông hiểu chiến trường và tâm lý đối phương hơn những quan Pháp.
 Nhu cầu tựa vào người Pháp chỉ còn tính cách tượng trưng. Tư thế của người Pháp giảm thiểu theo đà chiến thắng và sự lớn mạnh của Nguyễn Quân, trong khi đó, những kỳ vọng của Bá Đa Lộc hoặc những nhà truyền giáo về những ưu đãi, đặc quyền trong một tân triều đại nhà Nguyễn lại gia tăng mạnh hơn.
 Cuộc đầu tư của ông gíam mục đầy tham vọng Bá Đa Lộc trong giai đọan đầu và ở ngoại diện đã đạt thành quả ngoài sự mong muốn. Rồi đây với môt Hoàng tử Cảnh trở thành thiên tử, sẽ không phải chỉ một nước Nam Hà mà sẽ là cả một nước Đại Việt chờ đợi để được rửa tội.
 Nhưng Bá Đa Lộc đã đánh giá lầm con người Nguyễn Ánh. Được huấn luyện trong trật tự khổng giáo, lớn lên trong uy quyền nơi cửa Chúa. Định mạng đã đưa ông lên ngôi thiên tử sau những thử thách tận cùng gian khổ, một người như "đại nguyên súy Nguyễn Ánh !! "từng bơi qua sông đầy cá sấu, từng nhẫn nhục lưu vong dưới trướng vua Thái, từng đứng đầu mũi thuyền chỉ kiếm thúc quân xung phong rồi trở thành Hoàng Đế, không thể là một người dễ "lay chuyển định kiến."
 Nguyễn Ánh biết những nhà tu Công gíao hoặc những ông quan Tây Dương muốn gì. Ông ban phát chừng mực theo tiêu chuẩn có đi có lại (quid pro quo) và luôn luôn cho họ hiểu ông mới là người quyết định sống chết đối với mọi sinh linh trên đất Đại Việt.
 Dayot dù với bao công trạng nhưng từng bị Nguyễn Ánh bỏ tù sau vụ làm hư hại nặng một tầu giao thông năm 1795 nên bất mãn bỏ đi, Bá Đa lộc đã qua đời, Barisi chết trước khi Nguyễn Ánh toàn thắng Bắc Hà, chỉ còn lại vài người như Vannier hay Chaigneau nhưng mối liên hệ và ảnh hưởng của họ bắt đầu lỏng lẻo dần. Họ không thể chống đối nhưng mặt khác, cũng không đủ uy tín để ảnh hưởng tới Gia Long như Bá Đa Lộc với Nguyễn Ánh ngày trước.
 Thư của Chaigneau gửi M Letondal tháng 6-1807 viết cho thấy sự bất mãn cao độ đối với Gia Long và như hàm ý sẽ có một cuộc cách mạng.
Ai có khả năng âm mưu hay khơi dậy một cuộc cách mạng nếu không là những cựu tướng lãnh thân Tây Phương và đang nắm binh quyền.
 "...Nếu đã có những rối loạn ở xứ này thì tôi sẽ tự nguyện khai thác ngay?...
 Đức ông Bissachere chắc đã cho ông nghe chi tiết tình trạng hiện tại ở Bắc Hà và Nam Hà. Dân chúng ở hai khu vực này hiện đang sống trong thống khổ cực kỳ. Nhà vua và đám quan lại làm mất lòng dân xô người ta vào thế nổi loạn... Công lý và an nguy của mọi người được mua bằng tiền bạc, bọn nhà giầu khơi khơi hãm hại người nghèo mà không sợ bị trừng phạt vì tin chắc rằng có tiền là có lẽ phải.
 Băng hoại đến độ mà tôi nghĩ rằng xứ Cochinchine này như một con bệnh đang trải qua một cơn vật vã mãnh liệt. Căn bệnh sẽ giết chết xứ này hoặc nếu qua khỏi thì cũng sẽ phải tạo nên những thay đổi ...
 Nhà vua thường hỏi thăm tin tức của Dayot và mong ông ta trở lại Cochinchine.
.....Nếu đã có những rối loạn ở xứ này thì tôi sẽ tình nguyện khai thác ngay (Si il y avoir quelques troubles dans ce pays, J'en profiterez volontier).
 Người ta phải hiểu câu nói mập mờ này như thế nào, phải chăng đám người ngoại quốc này đang mưu toan một cuộc chính biến.
 Một lá thư khác cũng cuả Chaigneau viết từ kinh đô Huế một năm sau đó (12-12-1808) có vẻ nói rõ hơn về những chờ đợi hoăc âm mưu của những linh mục.
 Ở giai đoạn này, vua Gia Long không còn sống được bao lâu nữa, thái độ chống đạo của Thái tử Đảm và đám văn quan trở thành lộ liễu khiến các linh mục lo sợ.
 Tuy nhiên, ở một vế khác của phương trình, vẫn còn niềm hi vọng cho giới tu siõ đó là những võ quan đang nắm thể thượng phong và chủ động trong giai đoạn suy yếu của Gia Long. Người ta chờ đợi và có thể đang vận động cho một biển động chính trị khi Gia Long băng hà.
 "Đức ông giám mục Verin (Labarette) và những linh mục ở Cochinchine hẳn đã thông tin cho ông biết về tình hình ở đây, thiết tưởng không cần lập lại nữa.
 Về phương diện tôn giáo, tôi tin rằng khi nhà vua hiện tại còn trị vì thì những nhà truyền giáo và đám con chiên vẫn được tạm yên thân mặc dù ông hoàng thái tử và đám quan cai trị chẳng ưa gì đạo Kyto.
 Tôi cũng sợ rằng thời gian trị vì của ông vua hiện tại không còn bao lâu nữa, Ở Bắc Hà đã có nhiều nhóm nổi loạn nhưng sau một vài cuộc tấn công đều đã bị dẹp yên, dư đảng phân tán khắp nơi. Tuy nhiên, những nhóm chống đối này lúc nào cũng có và có rất nhiều. Toàn dân Cochinchine đang cực kỳ đói khổ. Nhà vua bắt dân làm lao dịch mà không trả lương cũng không nuôi ăn vậy mà lại còn bắt đóng đủ thứ sưu thuế rất khắc nghiệt.
 Đám quan lại làm mất lòng dân và chỉ biết vơ vét tối đa còn về công lý thì họ chỉ xét xử sau khi đã lột sạch cả hai bên. 
 Tòan thể vương quốc này đang ở trong một tình trạng khủng hoảng không còn có thể kéo dài thêm vì sự thất nhân tâm đã ở mức độ không thể chịu đựng được nữa.

KY 24
Thời gian sẽ cho chúng ta biết nhừng gì sẽ diễn ra như ý sắp đặt của Thượng đế.
Một thư khác ngày 29-3-1809 Chaigneau cho biết là những đối trọi vẫn tiếp diễn trong nội bộ triều đình Huế.
Các quan có vẻ không hài lòng với vua Gia Long nhưng vẫn sợ nhà vua. Ở Bắc Việt vẫn liên tục có những cuộc nổi dậy. Lực lượng của nhà Vua ở đó bận rộn đánh dẹp không ngừng... Tuy nhiên mọi chuyệân sẽ vẫn trôi chẩy khi nhà vua còn đủ mạnh để còn cáng đáng được công việc nhưng:
"...sợ rằng khi ông qua đời sẽ xẩy ra một cuộc cách mạng kinh hoàng. Không một ai ở xứ này có thể thay thế được nhà vua.".
Phải chăng một âm mưu nào đó vẫn âm thầm thành hình vì đám quan Pháp chỉ còn vài ba người và những nhà tu đã dựa vào đâu để chờ đợi điều mà họ gọi là "một cuộc cách mạng kinh hoàng".
Hiển nhiên họ không thể trông đợi ở nhừng nhóm phục Lê ở ngoài Bắc hay đám quan cai trị trong triều đình vậy thì thế lực duy nhất còn lại vẫn là những tướng lãnh thân Tây Phương mà cột trụ chính là đại công thần Lê Văn Duyệt tổng trấn Gia Định Thành.
Trong lá thư trên người ta nôn nóng chờ đợi cái chết của Gia Long để làm bùng nổ càng sớm càng tốt những rối loạn và khơi dậy một cuộc cách mạng (thân Tây Phương, thiện cảm với Công Giáo). Càng lâu thì thế lực của phe Thái tử Đảm càng được củng cố.
Thế nhưng, khả năng kiểm soát của Gia Long tuy yếu dần nhưng ông vẫn tiếp tục trị vì và Chaigneau không giấu được sự thất vọng và nôn nóng của mình.
Thư của Chaigneau gửi Baroudel tháng 6-1819 tiết lộ về việc bí mật giúp một vài tu sĩ nhập nội Việt Nam và thái độ bài ngoại của triều đình Huế từ chối cho các thuyền ngoại quốc cặp bến dù lúc đó Gia Long còn sống. Nhà vua bị bịt mắt và bị bao vây hay ông đã thực sự chuyển hướng chống ngoại quốc.?..
"Đức ông giám mục Maxula và Thomassin đã đổ bộ êm thắn mà không một ai hay biết. Ngay từ đêm trước khi tầu liên lạc với đất liền đã có có người lén mang họ vào bờ.... Tôi cũng như ông Vannier đã làm bất cứ điều gì có thể làm được trên xứ này để giúp thuyền trưởng Joze Ribeiro nhưng chúng tôi đã thất bại. Người ta không còn cho cho phép bất cứ tầu ngoại quốc nào cặp bến..
Mỗi ngày họ lại tìm ra một cách khác nhau để đẩy sự khó chịu tới mức tối đa.... Riêng tôi, không còn chịu đựng được nữa. Tôi cực kỳ nôn nóng chờ đợi có một chiếc thuyền Pháp nào ghé qua đây để tôi có thể trở về quê hương...
Sưc khỏe của nhà vua hiện rất yếu kém, và có thể băng hà bất cứ lúc nào. Chừng đó sẽ là cơ hội để xẩy ra những thay đổi trong chính quyền!!!. Vị thái tử kế vị nhà vua cực kỳ thù ghét đạo thánh của chúng ta (đạo Công Giáo) và cam kết sẽ tàn sát đạo..."
Thư của Vannier viết cùng giai đoạn này cho biết rõ hơn về tình hình chính trị trong triều đình Huế trong những ngày chót của triều đại Gia Long. Nhà vua còn đó nhưng sự chuyển nhượng quyền hành trên thực tế đã lọt hoàn toàn vào tay hoàng tử Đảm.
"Tôi đã cố hết lòng xin cho ông Kergariou được bệ kiến nhà vua nhưng những âm mưu trong triều đình và sự bài bác của Thái Tử khiến chuyện này không thực hiện được. Người ta viện dẫn luật lệ xứ này nhất là nại cớ rằng ông ta không có quốc thư của vua Pháp ủy nhiệm khiến không biết phải đón tiếp ông ta như thế nào.
Thật là một thái độ vô ơn đối với người Âu Châu và đặc biệt với nước Pháp là những người đã giúp nhà vua chinh phục đất nước này.
Thú thực là từ phút đó, Chaigneau và tôi cực kỳ kinh tởm cái xứ Cochinchine này, chúng tôi sẽ tìm phương tiện rời khỏi đây để trở về với nước Pháp thân yêu ..
Còn thái tử Đảm thì ngay từ bây giờ đã bắt đầu nói đến chuyện sẽ tàn sát đạo thánh của chúng ta. Ông ta thúc đẩy nhà vua phải chấp nhận ở cái vương quốc này chỉ có một đạo đó là đạo của ông ta. Đã hai lần ông ta nói trước các quan là chỉ có một đạo đó là đạo của Hoàng Đế.
Cho đến nay, nếu người ta chưa tàn sát các tín hữu Kyto là vì họ còn nể mặt hai chúng tôi.
Với một tình thế như vậây, khi nhà vua băng hà thì chuyện chúng tôi nán lại Cochinchine sẽ rất khó. Bắt buộc một cuộc cách mạng sẽ phải xẩy ra ở đây một khi nhà vua nằm xuống.
Nếu không phải là vì vấn đề chính trị thì chúng tôi chẳng có gì để phiền hà Thái Tửû Đảm vì ông ta đối với cá nhân chúng tôi rất khả ái, thường khen ngợi chúng tôi với tất cả các quan lại trong triều..."
Luận điệu của Vannier trong lá thư này càng làm người ta thắc mắc vì dựa vào đâu mà ông ta giám chắc rằøng bắt buộc phải có một cuộc cách mạng khi Gia Long chết ...
Chaigneau vừa xin nghỉ phép 2 năm để về thăm quê hương cùng gia đình chỉ để lại một người con để thi hành những công việc mà Chaigneau đang làm. Nói là nghỉ phép nhưng Vannier biết rằng ông ta sẽ không trở lại nữa. Còn lại một mình Vannier đang xuống tinh thần và chán nản cũng đang tìm cách ra đi.
"Như vậy là tất cả những người Pháp từng giúp nhà vua chinh phục lại đất nước của ông chỉ mình tôi nán lại đây. Riêng tôi, còn vài món nợ chưa đòi được ở xứ này nếu không tôi cũng đã mang cả gia đình về Pháp."
Người ta chờ đợi sự ngã ngũ thế cờ sau cái chết của Hoàng Đế, và cuối cùng chuyện đó đã đến. Gia Long õ băng hà ngày 2-1-1820. Tang lễ được cử hành trọng thể ngày 27-5. Mọi chuyện đã diễn ra êm ả, không hề có chính biến hay cách mạng trong triều đình Huế.
Vannier cho rằng những quan thuộc phe chống đối đổi còn nghe ngóng xem tân vương hành như xử thế nào. Nếu thái độ của Minh Mạng không có gì thay đổi thì họ sẽ được sự tín nhiệm cuả họ.
Không có gì thay đổi có nghĩa là Minh Mạng sẽ giữ nguyên tình trạng cũ thời tiên đế, địa vị của những ông quan không phảùi phe của hoàng tử Đảm không bị lung lay, đạo giáo sẽ không bị tàn sát như những đe dọa trước khi ông lên cầm quyền....

 KY 24
 Thời gian sẽ cho chúng ta biết nhừng gì sẽ diễn ra như ý sắp đặt của Thượng đế.
 Một thư khác ngày 29-3-1809 Chaigneau cho biết là những đối trọi vẫn tiếp diễn trong nội bộ triều đình Huế.
 Các quan có vẻ không hài lòng với vua Gia Long nhưng vẫn sợ nhà vua. Ở Bắc Việt vẫn liên tục có những cuộc nổi dậy. Lực lượng của nhà Vua ở đó bận rộn đánh dẹp không ngừng... Tuy nhiên mọi chuyện sẽ vẫn trôi chẩy khi nhà vua còn đủ mạnh để còn cáng đáng được công việc nhưng:
 "...sợ rằng khi ông qua đời sẽ xẩy ra một cuộc cách mạng kinh hoàng. Không một ai ở xứ này có thể thay thế được nhà vua.".
 Phải chăng một âm mưu nào đó vẫn âm thầm thành hình vì đám quan Pháp chỉ còn vài ba người và những nhà tu đã dựa vào đâu để chờ đợi điều mà họ gọi là "một cuộc cách mạng kinh hoàng".
 Hiển nhiên họ không thể trông đợi ở nhừng nhóm phục Lê ở ngoài Bắc hay đám quan cai trị trong triều đình vậy thì thế lực duy nhất còn lại vẫn là những tướng lãnh thân Tây Phương mà cột trụ chính là đại công thần Lê Văn Duyệt tổng trấn Gia Định Thành.
 Trong lá thư trên người ta nôn nóng chờ đợi cái chết của Gia Long để làm bùng nổ càng sớm càng tốt những rối loạn và khơi dậy một cuộc cách mạng (thân Tây Phương, thiện cảm với Công Giáo). Càng lâu thì thế lực của phe Thái tử Đảm càng được củng cố.
 Thế nhưng, khả năng kiểm soát của Gia Long tuy yếu dần nhưng ông vẫn tiếp tục trị vì và Chaigneau không giấu được sự thất vọng và nôn nóng của mình.
 Thư của Chaigneau gửi Baroudel tháng 6-1819 tiết lộ về việc bí mật giúp một vài tu sĩ nhập nội Việt Nam và thái độ bài ngoại của triều đình Huế từ chối cho các thuyền ngoại quốc cặp bến dù lúc đó Gia Long còn sống. Nhà vua bị bịt mắt và bị bao vây hay ông đã thực sự chuyển hướng chống ngoại quốc.?..
 "Đức ông giám mục Maxula và Thomassin đã đổ bộ êm thắm mà không một ai hay biết. Ngay từ đêm trước khi tầu liên lạc với đất liền đã có có người lén mang họ vào bờ.... Tôi cũng như ông Vannier đã làm bất cứ điều gì có thể làm được trên xứ này để giúp thuyền trưởng Joze Ribeiro nhưng chúng tôi đã thất bại. Người ta không còn cho cho phép bất cứ tầu ngoại quốc nào cặp bến..
 Mỗi ngày họ lại tìm ra một cách khác nhau để đẩy sự khó chịu tới mức tối đa.... Riêng tôi, không còn chịu đựng được nữa. Tôi cực kỳ nôn nóng chờ đợi có một chiếc thuyền Pháp nào ghé qua đây để tôi có thể trở về quê hương...
 Sưc khỏe của nhà vua hiện rất yếu kém, và có thể băng hà bất cứ lúc nào. Chừng đó sẽ là cơ hội để xẩy ra những thay đổi trong chính quyền!!!. Vị thái tử kế vị nhà vua cực kỳ thù ghét đạo thánh của chúng ta (đạo Công Giáo) và cam kết sẽ tàn sát đạo..."
 Thư của Vannier viết cùng giai đoạn này cho biết rõ hơn về tình hình chính trị trong triều đình Huế trong những ngày chót của triều đại Gia Long. Nhà vua còn đó nhưng sự chuyển nhượng quyền hành trên thực tế đã lọt hoàn toàn vào tay hoàng tử Đảm.
 "Tôi đã cố hết lòng xin cho ông Kergariou được bệ kiến nhà vua nhưng những âm mưu trong triều đình và sự bài bác của Thái Tử khiến chuyện này không thực hiện được. Người ta viện dẫn luật lệ xứ này nhất là nại cớ rằng ông ta không có quốc thư của vua Pháp ủy nhiệm khiến không biết phải đón tiếp ông ta như thế nào.
 Thật là một thái độ vô ơn đối với người Âu Châu và đặc biệt với nước Pháp là những người đã giúp nhà vua chinh phục đất nước này.
 Thú thực là từ phút đó, Chaigneau và tôi cực kỳ kinh tởm cái xứ Cochinchine này, chúng tôi sẽ tìm phương tiện rời khỏi đây để trở về với nước Pháp thân yêu ..
 Còn thái tử Đảm thì ngay từ bây giờ đã bắt đầu nói đến chuyện sẽ tàn sát đạo thánh của chúng ta. Ông ta thúc đẩy nhà vua phải chấp nhận ở cái vương quốc này chỉ có một đạo đó là đạo của ông ta. Đã hai lần ông ta nói trước các quan là chỉ có một đạo đó là đạo của Hoàng Đế.
 Cho đến nay, nếu người ta chưa tàn sát các tín hữu Kyto là vì họ còn nể mặt hai chúng tôi.
 Với một tình thế như vậây, khi nhà vua băng hà thì chuyện chúng tôi nán lại Cochinchine sẽ rất khó. Bắt buộc một cuộc cách mạng sẽ phải xẩy ra ở đây một khi nhà vua nằm xuống.
Nếu không phải là vì vấn đề chính trị thì chúng tôi chẳng có gì để phiền hà Thái Tử Đảm vì ông ta đối với cá nhân chúng tôi rất khả ái, thường khen ngợi chúng tôi với tất cả các quan lại trong triều..."
 Luận điệu của Vannier trong lá thư này càng làm người ta thắc mắc vì dựa vào đâu mà ông ta giám chắc rằng bắt buộc phải có một cuộc cách mạng khi Gia Long chết ...
 Chaigneau vừa xin nghỉ phép 2 năm để về thăm quê hương cùng gia đình chỉ để lại một người con để thi hành những công việc mà Chaigneau đang làm. Nói là nghỉ phép nhưng Vannier biết rằng ông ta sẽ không trở lại nữa. Còn lại một mình Vannier đang xuống tinh thần và chán nản cũng đang tìm cách ra đi.
 "Như vậy là tất cả những người Pháp từng giúp nhà vua chinh phục lại đất nước của ông chỉ mình tôi nán lại đây. Riêng tôi, còn vài món nợ chưa đòi được ở xứ này nếu không tôi cũng đã mang cả gia đình về Pháp."
Người ta chờ đợi sự ngã ngũ thế cờ sau cái chết của Hoàng Đế, và cuối cùng chuyện đó đã đến. Gia Long băng hà ngày 2-1-1820. Tang lễ được cử hành trọng thể ngày 27-5. Mọi chuyện đã diễn ra êm ả, không hề có chính biến hay cách mạng trong triều đình Huế.
 Vannier cho rằng những quan thuộc phe chống đối đổi còn nghe ngóng xem tân vương hành như xử thế nào. Nếu thái độ của Minh Mạng không có gì thay đổi thì họ sẽ được sự tín nhiệm cuả họ.
 Không có gì thay đổi có nghĩa là Minh Mạng sẽ giữ nguyên tình trạng cũ thời tiên đế, địa vị của những ông quan không phải phe của hoàng tử Đảm không bị lung lay, đạo giáo sẽ không bị tàn sát như những đe dọa trước khi ông lên cầm quyền.

KY 25

Minh Mạng 10 năm trường kỳ mai phục.


 Như nhận xét của Chaigneau, Minh Mạng là một tay chính trị có đảm lược. Ông ta hiểu rằng cái địa vị mà ông vừa có đuợc còn bị chi phối bởi nhiều thế lực khác nhau nên đã tìm mọi cách để làm vừa lòng mọi phía.
 Khi chưa lên ngôi, ông đóng vai bảo thủ hung hăng đòi tàn sát đạo Công giáo khiến những thế lực thân Tây phương như những võ quan hoặc những quan theo đạo lo sợ nhưng khi việc đăng quan đã chính thức và sau khi đã gài tay chân vào các chức vụ cần yếu cho an ninh của ông thì Minh Mạng lại đóng một vai khác, ôn nhu và như chấp nhận sẽ không muốn làm sáo trộn nền móng cũ của tiên đế.
"ông ta giữ một thái độ im lặng, không có một hành động gì đối với đạo Thánh của chúng ta. Có thể tin rằng ông ta đã suy nghĩ chín chắn về chuyện này"
 Quả đúng như vậy, Minh Mạng là một người chính trị có thủ đoạn. Ông đã đóng kịch khéo léo không chỉ trong những ngày đầu khi mới hốt hoảng nắm uy quyền trong tay mà ông còn đóng vai nhịn nhục này trong nhiều năm cho tới khi đối thủ mà ông ghê sợ nhất là đại công thần uy dũng Lê Văn Duyệt qua đời. Chính Vannier lúc đầu cũng bị mờ mắt về thái độ của Minh Mạng:
 "Riêng thái độ của tân vương đối với tôi (Vannier) thật không có gì để phải phàn nàn. Nhà vua luôn luôn tiếp tôi niềm nở và chuyện trò rất thân mật. Tôi tin rằng đó là nhờ những lời khuyên bảo và bản di chiếu của phụ hoàng Gia Long trước khi nhắm mắt đã khiến ông ta cư xử hoàn toàn khác với lúc chưa lên ngôi. Đây là một thái độ ngoài dự đoán của mọi người."
 Bản di chiếu của Gia Long, cho đến nay vẫn chưa được thấy đề cập đến trong các sử liệu tuy nhiên, những lời trăn chối của ông trên giường bệnh có được loan truyền ra ngoài theo đó Gia Long đã căn dặn thái tử Đảm:
 "Hoàng nhi hãy đối xử tốt với người Pháp nhưng không nhựợng một tấc đất nào của Đại Việt cho người Pháp".
 Lời trăn chối này (được lập lại trong một bài báo đăng trong một tạp chí Hoa Ky Living Age số 2860 năm 1883) phải chăng đã phản ảnh sự lo sợ thường trực của Gia Long đối với thế lực của người Pháp nhất là sự vướng mắc của hiệp định Versaille.
 Nguyễn Ánh từ chối không thi hành hiệp định này nhưng sự trợ giúp bán chính thức của Bá Đa Lộc và sự hiện diện của những cố vấn Pháp trong binh lực nhà vua là một thực tế không thể chối cãi.
 Nhận định của Vannier sau này về việc Minh Mạng nhất định không nhận quốc thơ của Vua Louis16 cũng cho thấy là từ Gia Long tới Minh Mạng người ta vẫn e ngại sức mạnh của Tây Phương và cũng luôn luôn nghe ngóng tình hình Âu Châu và canh cánh bên lòng chuyện nước Pháp đòi nợ. Nợ vật chất và nợ ân tình.
 Gia Long không phải là một người thiển cận và sự lo ngại này không bao giờ rời ông. Thư của Chaigneau ghi nhận là cuối năm 1812 nhà vua đã ra lệnh cho Chaigneau viết thơ cho Letondal nhờ theo rõi tình hình Âu Châu .
 Lich sử cũng đã chứng minh sự lo xa của Gia Long đã thực sự xẩy ra sau này và trở thành là cái cớ đầu tiên để người Pháp can dự và Đông Dương.
 Riêng Minh Mạng, thận trọng hơn cả những lời căn dặn của Gia Long, ông nhẫn nhục, khéo léo đóng tuồng để tiến hành mưu lược của mình trong suốt 10 năm trời trong từng bước tiến thoái chắc chắn, cho đến lúc có thể đào mả xiềng xương cốt của "Quyền Yểm Lê Văn Duyệt" và thẳng tay sát đạo.
 Chaigneau xin nghỉ phép với dụng tâm không trở lại Việt Nam nữa nhưng rồi lại trở lại với tư cách là sứ thần của nước Pháp nhưng theo Vannier người từng được theo dõi tình hình từ lúc Minh Mạng lên ngôi thì khó mà có thể làm ăn xứ Annam.
 "Chaigneau vừa trở lại Huế với vợ con. Ông ta được vua Pháp chỉ định làm lãnh sự tại Cochinchine và dự định sẽ nán lại khoảng 4 hay 5 năm nếu việc buôn bán với nước Pháp thực hiện được.
 Ở Pháp người ta nghĩ như vậy và hầu như ép ông ta trở lại đây để lúc nào cũng có bên cạnh hoàng đế Annam một trong hai người chúng tôi.
Măc dù Louis 18 có thiện chí như vậy nhưng tôi cho rằng sẽ rất khó để thiết lập việc buôn bán ở xứ Annam nhất là muốn buôn bán trong thế có lợi vì nhà cầm quyền hiện hữu không muốn có liên hệ với bất cứ quốc gia Âu Châu nào.. Họ sợ người Âu Châu và chỉ quen làm ăn với người Tầu vì họ mặc tình bắt nạt.
 Dù vua Pháp đã viết ủy nhiệm thư cho Chaigneau và gửi tặng phẩm cho nhà vua nhưng ông không chịu nhận.
 Tôi và Chaigneau phải nói tới nói lui mãi mà vẫn không được. Sau cùng chúng tôi dọa đòi bỏ về Pháp lúc đó nhà vua mới miễn cưỡng chịu nhận thơ và quà tặng.
 Dù vậy, ông giữ một thái độ lập lờ, làm ra vẻ như không biết rằng lá thơ mà Chaigneau đệ trình thực sự là quốc thơ của vua nước Pháp. (không muốn xác nhận có một quan hệ ngoại giao chính thức).
 Thái độ này theo tôi là để chứng tỏ nhà vua không hề chính thức liên lạc với nước Pháp. Ông ta sợ rằng trong ủy nhiệm thư người Pháp sẽ đòi thiết lập một cơ sở nào đó ở Cochinchine... mặc dù đó là "bổn phận" của xứ Annam đối với nước Pháp và những người Pháp đã phục vụ ở đây để giúp nhà vua giữ được đất nước của mình.
 (Muốn ám chỉ hiệp ước Versaille và sự hiện diện bán chính thức của những người Pháp và chiến cụ Bá đa Lộc mua về như là sự thi hành hiệp ước)
Nhà vua cũng đã từ chối đề nghị này với nhiều nước khác.
 Việc Chaigneau trở lại đây làm đảo lộn dự tính của tôi xin nghỉ phép hai năm để thăm gia đình và mang hai đứa con trai về Pháp đi học. Tôi sẽ để lại vợ và những đứa con khác.
 Nhà vua chưa quyết định chuyện này nhưng cho quan thượng thư nói với tôi là những người ngoại quốc phải nán lại chờ chiếc tầu Hoa Hồng (Rose) vì tầu này sẽ mang thư trả lời của vua Annam và... "nếu đích thực là thư của quốc vương Pháp !!! " thì nhà vua sẽ cần phải có một sứ thần mang thư trả lời. Trong trường hợp này thì tôi (Vannier) sẽ là sứ thần của vua Annam.
 Tòan là nhừng lời giả dối, không tin được lấy một chữ. Tôi đã quá rõ ông vua này để có thể tin được nhữøng gì ông ta nói và tôi còn có cảm tưởng ông ép tôi phải chấp nhận đòi hỏi của ông nhưng khi tầu Hoa Hồng trở lại ông sẽ nuốt lời.
 Thay vì trở về Pháp với hai người con tôi sẽ mang cả gia đình về.
 Ông vua mới này khôn ngoan, tham lam và giả dối một cách rất chính trị. Người ta cam đoan với tôi là người nào mà ông ấy không ưa thì lại càng đối xử lịch sự. Nhiều võ quan, văn quan bạn của tôi, nhữøng quan nhất phẩm triều đình nói với tôi rằng nhà vua không tin bất kỳ ai kể cả chúng tôi (là những đại thần của tiên đế), nhà vua nghi ngờ mọi người và điều đó chứng tỏ ông ta một bụng dạ rất hẹp hòi và thiểu ngay thẳng. Tôi chẳng thấy có gì tốt đẹp trong triều đại của ông vua này.
 Chaigneau mới từ Pháp trở về Việt Nam và thất vọng khi được biết Gia Long đã băng hà cũng như thái độ bất hợp tác của Minh Mạng. Thư của Chaigneau tháng 10 -1821 gửi Breluque viết:
 "Tôi và gia đình đã trở lại Annam nhưng đáng buồn là tiên đế đã băng hà còn tân vương làm tôi rất buồn vì thấy không thể kỳ vọng ở ông như đối với vua cha.
 Đối với đạo thánh của chúng ta, người ta thừa biết là ông ta vốn chẳng ưa gì nhưng cũng chẳng giám ra tay tàn sát. Ông vua này rất "chính trị" và quá nhút nhát để giám làm mạnh.
 Tân vương không được lòng của phần lớn các quan trong triều. Ngay sau khi vua Gia Long băng hà, nhà vua đã trổ mòi đối xử tàn tệ với những cựu thần của tiên đế chỉ vì muốn sớm được chứng tỏ uy quyền thiên tử. Thái độ này làm mất lòng những đại thần cao niên của tiên đế. Nhà vua hầu như không còn xử dụng mấy người này nữa....

  Ky 26


 Dư luận dân chúng ở Annam vốn rất tin dị đoan và cũng tin tưởng những đại thần của triều trước. Họ xì xào bàn tán về chuyện tân vương dọn ngay vào chánh điện khi vua cha băng hà....
 Một thư khác của Chaaigneau gửi linh mục Bissachere sau đó không lâu (tháng 12-1821) cho người ta một cái nhìn rõ hơn về tâm trạng của Minh Mạng khi mới lên ngôi.
 Tân vương ý thức được sự mong manh của cái địa vị mà ông vừa nắm được trước những thế lực đối trọi nhưng đồng thời ông cũng cảm nhận được cái quyền lực kinh khiếp của một vị thiên tử.
 Ông thử thách cái uy quyền này một cách rụt rè để thăm dò đồng thời tìm cách củng cố cái trung tâm quyền lực chính quanh triều đình Huế.
 Đối với những thế lực mà ông còn e sợ như những võ quan đang nắm binh quyền hay những quan Pháp cận thần thân tín của tiên đế, Minh Mạng trước măt đóng vai trò thân thiết nhưng ngấm ngầm không còn tin dùng nữa. Theo Chaigneau:
 "Tân vương tiếp đón tôi niềm nở, ngay cả đã khóc nức nở khi nhắc lại tình thân của của phụ hoàng ông đối với tôi. Ông cũng thuật lại những điều mà vua cha đã nói về tôi trước khi chết.... Tuy nhiên, thái độ niềm nở này chẳng mê hoặc được tôi sau những gì chính tôi được chứng kiến và đuợc nghe người ta nói về nhà vua.
 Chỉ là những điều giả trá không thể tin tưởng được. Minh Mạng rất kiêu ngạo lại được đám văn quan nịnh hót ca ngợi hết lòng. Họ nói rằng nhà vua là một văn tài lỗi lạc. Sự tâng bốc này khiến nhà vua nghĩ rằng mình là một chúa tể vĩ đại và bắt đầu kiểm soát nghiêm ngặt các đại thần của tiên đế nhưng xem ra ông không thành công lắm và chỉ tạo nên nhiều kẻ thù.
 Tất cả đám " tôi tớ " khi ông còn là hoàng tử được nâng đỡ tận tình, những võ quan trong đội cấm binh cũ không còn được tin dùng nữa trong lúc những ông quan bị thất sủng dưới thời Gia Long hầu hết lại được phục chức và thăng chức cao hơn.
 Minh Mạng nôn nóng trong việc tiếp thu chính quyền để xác nhận quyền lực nên đã dọn ngay vào nội cung.
 Trong lúc đợi ngày an táng vua cha, ông gấp rút cho mang xác của Gia Long ra quàn trong ngôi chùa của hoàng hậu. Người Annam vốn rất tin dị đoan nên hành động này làm người ta bớt kính trọng nhà vua và cũng tạo cho ông thêm nhiều kẻ thù.
 Ngày 10-10-1821 Minh Mạng rời Huế rất sớm để đi Hà Nội nhận sắc phong của nhà Thanh dự trù vào ngày 10-1- 1822.
 "Còn về đạo thánh của chúng ta, tôi sợ sẽ héo mòn đi thay vì phát triển. Đức ông Véren vừa từ trần, trước đó không lâu là đức ông Jarot còn đức ông Tomasssin thì hiện rất yếu, thường khạc ra mắu... Nhà cầm quyền hiện nay khônng ưa ông và tôi nhận được tin là người ta đang nói đến chuyện trục xuất tất cả các giáo sĩ Âu Châu và hành quyết các giáo dân..."
 Tuy nhiên Minh Mạng chỉ hăm he vậy thôi, nhưng không hề giám thực sự làm mạnh vì còn một trở ngại chính là vị đại thần đầy uy dũng Tả quân Lê văn Duyệt, cột trụ chính của phe quân sự thân Tây Phương đang trấn giữ Gia Định.
 Minh Mạng đóng đô ở Huế nhưng Gia định vẫn được coi là đất khởi nghiệp của nhà Nguyễn, khu vực này mang một vẻ linh thiêng gắn chặt với uy tín của đại công thần Lê Văn Duyệt khiến Minh Mạng không giám có một hành động nào va chạm đến Gia Định.
 Còn Lê Văn Duyệt, ông không ưa Minh Mạng nhưng với lòng trung thành dành cho vua Gia Long nên cũng không muốn ở thế chống đối, ông chỉ dùng uy tín của mình để kỳ đà cản mũi những hành độâng quá đáng của Minh Mạng.
 Cứ như thế trong 10 năm kế đó, tình hình Việt Nam như lịm đi trong thế quân bình của những thế lực.
 Mọi phía đều tự vừa lòng với sự lắng đọng này. Minh mạng tiếp tục củng cố triều đình Huế, tiếp tục cản trở thụ động việc bành trướng của đạo công giáo nhưng không đàn áp. Phía Công giáo vẫn lén lút phát triển và cho rằng đây là 10 năm an bình nhất của đạo.
 Thật ra 10 năn an bình này chỉ là sự dồn nén đầy oi bức của những giây phút trước một cơn giông bão sẽ bùng nổ từ cuối đời Minh Mạng
 Nhìn tổng lược lại, những thất bại của Bá Đa Lộc gồm nhiều khía cạnh.
 Trước hết là thái độ cuồng tín đến trở thành “mê tín" của Bá Đa Lộc trong việc truyền đạo.
 Thái độ này có thể bắt nguồn từ tính giáo điều cứng nhắc của giáo hội La Mã thời đó và sự đánh giá chủ quan uy thế của Bá Đa Lộc với Nguyễn Ánh.
 Bá Đa Lộc đã đánh giá quá cao những trợ giúp của các cố vấn Tây Phương trong sự khôi phục nhà Nguyễn trong lúc đánh giá thấp hoặc không thể nhìn thấy khả năng trí tuệ và truyền thống văn hoá Việt Nam qua hình ảnh những người nông dân đi chân đất, không có văn tự.
 Những giáo si Tây Phương có đủ lý do để nghĩ như vậy nếu họ so sánh sự khác biệt của đời sống ở Âu Châu với những kinh kỳ tráng lệ và những mái nhà tranh lụp sụp của Việt Nam. Những người làm súng thần công để đi chinh phục đã quyên rằng thuốc súng vốn không phát xuất từ Tây Phương.
 Quan niệm thủ cựu thường chỉ đánh giá một nền văn minh qua những công trình kiến trúc và trong khoản này Việt Nam thua xa Ấn Độ ngay cả Thái Lan hoặc Chiêm thành là một quốc gia đã bị đồng hóa êm ả trong văn hóa Việt Nam.
 Dưới con mắt của những người Tây Phương Việt Nam được đồng hoá với những bộ tộc lạc hậu, bọn mọi săn đầu lâu trên quần đảo Borneo hoặc New Guinea.
 Người ta có thể sẽ mất rất nhiều thời giờ và cũng rất khó để nói về những yếu tính của văn hóa và văn minh Việt tộc. Chẳng ai chối cãi nó liên tục chịu ảnh hưởng xâu đâm của nền văn minh Trung Hoa và đạo Khổng nhưng trải chiều dài lịch sử từ ngày lập quốc, trong nồ lực bành trướng và đồng hoá liên tục từ phương Bắc, hẳn phải có một điều gì đặc biệt lắm nên người Việt mới tồn tại được.
 Thời gian sinh hoạt ở Việt Nam quá ngắn ngủi, mất hút trong tao loạn không đủ để những giáo sỹ Tây Phương nhận ra điều này.
 Hai chục năm phục vụ cho Nguyễn Ánh là khoảng thời gian dài của một đời người nhưng thật chẳng thấm vào đâu nếu so với một nền văn hoá đã có từ nhiều ngàn năm trước của người Việt....

 Ky 27

 Thư từ giữa những giáo si về Việt Nam đã cho thấy sự miệt thị này. Sự lầm lẫn của những linh mục Tây Phương khi so sánh đời sống Âu Châu và Việt Nam thời đó nó cũng mong manh như sự lầm lẫn quen thuộc giữa sức mạnh của văn hoá và sự hào nháng của văn minh.
 Chính vì sự ước tính sai lầm này mà Bá Đa Lộc và những linh mục Tây Phương tưởùng rằng họ có thể đốt giai đoạn trong nỗ lực tẩy não những con chiên ngơ ngác của xứ An Nam để thay vào đó bằng một đức tin hoàn toàn mới lạ. Càng đáng tin tưởng hơn khi các giáo si nhận xét rằng ngay cả đạo Phật cũng không mang một vẻ quyết liệt và bó buộc như một tôn giáo trong đời sống người Việt Nam, nó chỉ bàng bạc trong một vài ý niệâm về đạo đức hoặc hạnh phúc.
 Đối với người Việt thời đó, những người đi khai phá khẩn hoang phải đối phó với rừng sâu nước độc, thú dữ, bệnh dịch. Thần linh mang một vẻ cụ thể và có thể tác hại hoặc ban phước nhãn tiền. Sức mạnh của thần thánh hoăc sự linh hiển của người quá cố còn hơn là đức Phật của những nhà sư. Bảo đó là mê tín dị đoan như các giáo sỹ cũng đúng mà bảo là một nhu cầu tinh thần để cố bám lấy hi vọng vaò đời sống cũng đúng nốt.
 Thật ra các giáo si chỉ muốn thay thế những thần linh lẻ tẻ bằng một thần linh lớn hơn, uy lực hơn đó là chúa Ky Tô nhưng họ đã thất bại.
 Nguyễn Ánh, có một thiện cảm đặc biệt và lúc nào cũng nhớ ơn Bá Đa Lộc nhưng từ sự nhớ ơn này tới vị thế của một quân vương Á Đông lại là chuyện khác.
 Uy quyền là một điều sinh tử để duy trì một chế độ phong kiến độc tài, bất cứ ai va chạm đến uy quyền này ngay cả vợ con vua cũng đều bị tiêu diệt.
 Khi quân (khinh vua là một tội chết). Uy quyền này tự nó phải mang một vẻ thần linh tối thượng, vua là con trời.
 Nguyễn Ánh năn ni với Bá Đa Lộc cho những tuỳ tướng theo đạo Công giáo được dự các cuộc cúng tế như mọi người nhưng không được Bá Đa Lộc đồng ý. Dù vậy cuối cùng Nguyễn Ánh cũng đành chịu nhượng bộ cho các quan Tây Phương được miễn lễ lạy ngay giữa Triều. Nhìn trong nhãn giới thế quyền của một chế độ quân chủ thì đây quả là một nhượng bộ quá đáng, làm mất kỷ cương, tạo ra những xung khắc về uy quyền và chia rẽ trong giới quan lại cai trị. Quan Tây không lễ lậy vì bị coi là là bọn man di Tây Phương nhưng còn các quan Việt Nam theo đạo Công giáo sao cũng không chịu vái lậy trong các nghi lễ. Nguồn gốc chia rẽ đố kỵ khởi từ đây với một tình trạng lưỡng chuẩn (double standards) rất khó chịu trong hàng ngũ cai trị.
 Uy quyền của nhà vua trải dần xuống dưới các phẩm trật quan lại và dân chúng. Thế quyền là xương sống của chế độ, là trật tự của xã hội. Trong hệ thống uy quyền này, một người làm khác là có thể tạo một phản ứng dây chuyền.
Nguyễn Ánh đã phải chấp nhận tất cả những cái gai đó vì cần đến Bá Đa Lộc.
 Đôi lúc chính Bá Đa Lộc cũng phải nhìn nhận là những áp lực của ông với Nguyễn Ánh hơi quá đáng khi ông nói:
 “các đại thần ở Pháp sẽ nghĩ sao khi ông hoàng của họ được đặt trong tay một người ngoại quốc có tôn giáo khác biệt"
 Sự nhân nhượng và thiện chí của Nguyễn Ánh đối với Bá Đa Lộc đi ngược chiều với sự củng cố thế lực của ông. Sự cần thiết những cố vấn Tây Phuơng giảm dần, Ánh càng có uy quyền thì lại cần tăng uy quyền để củng cố uy quyền... kể cả quyền giết bất cứ ai. Uy quyền là yếu tính của mọi chế độ độc tài... và nó đi ngược lại những giảng dậy về công bình bác ái của đức tin Ky Tô.
 Một yếu tố khác quan trọng không kém là những giáo si đã không xét tới ảnh hưởng của Trung Hoa đối với người Việt.
 Nguyễn Huệ vừa chiến thắng xong cũng phải xin thông hiếu với Trung Hoa.
 Người Việt liên tục đề kháng người Trung Hoa và kiến tạo cho mình một lý lịch riêng nhưng lạ thay văn hoá Trung hoa lại được dung nạp tuyệt đối không chỉ trong những giai đoạn Bắc thuộc mà ngay cả trong những giai đoạn độc lập.
 Ảnh hưởng của Trung Hoa đối với Việt Nam còn hơn hẳn cả sự chi phối của gốc rễ văn minh Hy La đối với các quốc gia Âu châu vì 24 mẫu tự Latin được dùng để viết nhiều ngôn ngữ khác nhau. Chữ Tầu, trái lại, đã được xử dụng ở Việt Nam dưới dạng nguyên thuỷ trong nhiều ngàn năm và vẫn được kể là văn tự chính thống để huấn luyện những cán bộ cai trị là đám trí thức và quan lại. (chữ Nôm sử dụng từ đời Hàn Thuyên chỉ là cách phát âm những từ tiếng Việt bằng Hán tự, tuy được xử dụng nhiều hơn sau này nhưng vẫn bi miệt thị như là một thứ văn tự thoái hoá, (nôm na mách qué) không những thế trước khi biết chữ Nôm người ta phải thông thạo chữ Hán)
 Chưa hết mọi kiến thức của giới trí thức lãnh đạo đều được dựa vào sách vở Trung Hoa kể từ quân sự chính trị đến kiến văn và khoa học.
 Ảnh hưởng Trung Hoa này đã đào tạo nên một lớp cán bộ cai trị cốt tuỷ của mọi triều đại. Ảnh hưởng của đám quan văn chỉ tạm nhường bước cho đám quan võ trong một giai đọan ngắn của thời chiến nhưng ngay khi có hoà bình, khi chế độ được củng cố là họ lại trổi lên nắm vai chủ động.
 Họ trở thành những chuyên viên bình định, đẩy quần chúng vào một khuôn khổ trật tự điển cố và theo mẫu mực của Trung Hoa. Họ sẽ được trọng dụng bởi mọi triều đại vì nó đóng góp vào việc ổn cố xã hội và củng cố vương quyền trong đó có uy quyền của chính lớp cai trị.
 Ảnh hưởng của Trung Hoa đối với Việt Nam cũng liên tục và kiên trì như chính sức đề kháng của người Việt chống lại mọi ảnh hưởng của Trung Hoa. Người Việt thờ Quan Công và dùng ngay binh thư của Tôn Tử để chống lại người Tầu. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhạc từ hình thức và nội dung mang vóc dáng của một tụ nghĩa đường Lương Sơn Bạc. Ngọc Hân Công Chúa khóc Quang Trung cũng trích dẫn đến vua Thang vua Vũ...
 Áp lực văn hoá chưa đủ, áp lực quân sự cũng là mối đe dọa thường xuyên. Ông cha người Việt học được một kinh nghiẹm là họ chỉ có thể tồn tại và vớt vát được cá tính của mình nếu hòa với Trung Hoa. Đó cũng chỉ là một bài học sơ đẳng của Khổng giáo, Hòa Nhi Bất Đồng..
 Quang Trung, Nguyễn Ánh và có lẽ ngay cả Hồ Chí Minh sau này cũng không thoát khỏi sự lo sợ kẻ thù quá thân ái từ phương Bắc này.
 Kể từ sự suy tàn của nhà Tây Sơn sau cái chết của Nguyễn Huệ đưa tới sự trung hưng của nhà Nguyễn, đám văn quan trong triều Nguyễn Ánh bắt đầu lấy lại chân đứng, lấn át dần phe quân sự nhất là khi có sự phụ lực của đám si phu thủ cựu ở Bắc Hà được chiêu hồi về phục vụ nhà Nguyễn và được trọng dụng trong nỗ lực xây dựng chế độ và làm một đối trọng với nhưng võ quan đại công thần. Việc kềm chế những đại thần thời chiến, ngay cả việc triệt hạ một số nguời làm guơng đã xẩy ra ngay từ cuối đời Gia Long. Những nguời còn lại bị xiết dần vào guồng máy hành chánh và pháp luật...



Send comment
Your Name
Your email address
(View: 68392)
Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ đang gặp sóng gió dữ dội sau khi phó lãnh sự Ấn Độ là bà Deviany bị bắt giữ tại New York và bị cảnh sát lột trần truồng khám xét ( strip search ) vì tình nghi là đã vi phạm luật di trú Hoa Kỳ. Trong vụ bắt giữ nói trên, cảnh sát cho biết bà Deviany chỉ bị còng tay khi được áp giải tới tào thay vì bị còng ngay khi bị tạm giữ dù đây là một thủ tục được áp dụng với mọi người bất kể thuộc thành phần nào trong xã hội.
(View: 21188)
Là một sinh viên, một luật gia, Mendela được thực dân Anh huấn luyện với hậu ý sử dụng ông như một công cụ của chế độ thực dân để bóc lột hiệu quả hơn đồng bào mình, nhưng như Võ nguyên Giáp, ông đã từ bỏ mọi ưu đãi để trở thành một chiến sĩ tranh đấu cho quyền làm người của những dân tộc Phi châu.
(View: 72442)
Những người trách nhiệm trong bộ phậân sản xuất điện tại Việt Nam cũng sắc nhâïn tình trạng thiếu hụt điện trầm trọng và tốn phí quá cao trong việc banøh trướng lưới điện tới những vùng sâu , vùng xa. Điều này cho thấy việc sử dụng những đèn LED nếu không là mộït giải pháp vĩnh viễn và toàn hảo thì ít nhất cũng đáp ứng được giai doạn cho việc điện khí hoá mộït nông thôn còn quá nghèo như ở Việt nam. Những người trách nhiệm trong bộ phậân sản xuất điện tại Việt Nam cũng sắc nhâïn tình trạng thiếu hụt điện trầm trọng và tốn phí quá cao trong việc banøh trướng lưới điện tới những vùng sâu , vùng xa
(View: 69083)
Điều người ta cần trong những khu vực này đơn giản chỉ là một chút ánh đèn điện thay thế cho những ngọn đèn dầu tù mù, nguy hiểm vì dễ gây hoả hoạn và còn độc hại cho sức khoẻ vì những muội đèn, làm giảm thị lực vv Trong một nỗ lực giải phóng con người khỏi bóng đêm tăm tối , cũng là sự giải phóng trí tuệ khỏi sự giam cầm của ngu dốt và hiểm độc…, …..
(View: 67964)
Việc điện khí hoá nông thôn Việt Nam đã được đẩy khá mạnh tuy nhiên vẫn chưa đạt được mức 100% vì ở những vùng nông thôn xa thành thị công việc giản tiện là đưa tay bấm công tắc điện để bật đèn vẫn còn là một ước mơ xa xỉ. Đặc biệt tại những thôn, những bản làng vùng sâu vùng xa ở cao nguyên Bắc Việt, Trung Việt hay vùng đầm lầy Cà Mau hoặc những hải đảo nhỏ bé ven biển thì việc có một ngọn đèn điện vẫn là một tiện ích trong mơ ước. Một số người khá giả có thể sử dụng máy phát điện chạy bằng xăng nhưng thường thì tiện nghi này chỉ được dùng vào kỹ nghệ mà thôi.
(View: 63043)
Địa đạo Củ Chi là một di tích lịch sử nổi tiếng, thuộc xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách trung tâm Tp. Hồ Chí Minh 70km về phía tây bắc.  Đặc điểm: Địa đạo quả là kỳ quan dài 250km chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất, được làm nên từ dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất. Đường hầm sâu dưới đất từ 3 - 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Đường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫ
(View: 17929)
KY 11 Thật ra không phải chỉ De Conway gây trở ngại mà lý do sâu xa hơn là chính vào giai đoạn này nước Pháp cũng rối beng với đủ thứ vấn đề, ngân khố cạn rỗng, đám quý tộc nổi loạn, người Phổ chiếm đóng cộng hoà Batave thân Pháp. Vì thế, khi Pigneau vừa rời khỏi nước Pháp văn phòng thuộc địa cũng mật chỉ thị cho De Conway biết là chuyện viễn chinh Đông Dương phải đình chỉ lại
(View: 12352)
Tàng cây cổ thụ kia đã gục xuống, gỗ đã mủn ra trở về với đất, loài yêu quái tan đi thật mau, bọn rắn rết mù loà dưới ánh sáng mặt trời đứng yên đợi chết. Đời sau kể chuyện cổ tích, có người nói rằng hồn ma của những con ma vẫn còn đó mãi mãi, mọi người phải tránh xa, chẳng bao lâu cỏ dại, gai góc mọc lên um tùm, đất linh xưa thở thành ma địa. Cũng có người nói, đất này là đất nhà vốn lành, gỗ đã mục thành phân bón tốt. Hãy trồng một vườn hoa hay khơi một ruộng lúa.
(View: 18987)
Suốt 20 năm những người lính chiến ở miền Bắc cũng như ở miền Nam tiếp tục chiến đấu anh dũng mà chưa hề đặt câu hỏi là có thật họ đang chiến đấu cho những quyền lợi đích thực của tổ quốc và dân tộc, hay họ chỉ là những tên giác đấu bịt mắt, bịt tai bị lùa vào đấu trường. Người ta sống và chết cho những nhân danh. Một phía nhân danh khối Tự Do, chống đôïc tài Cộng Sản, một phía nhân danh chống tư bản bóc lột. Với cái giá xương mắu của ba triệu người Việt ở hai miền Nam Bắc và biết bao tang thương bên lề những cái chết đó, tháng tư 1975, miền Bắc toàn chiếm miền Nam. Phải chăng đây đã là canh bạc cuối cùng sau đó thì chỉ còn lại những tháng ngày hòa bình để xây dựng lại đất nước. Nhưng không, hận thù và tang thương vẫn tiếp diễn,
(View: 13963)
Atlantic Charter “Ngọn đuốc dẫn đường đưa tới hi vọng cho những dân tộc, những quốc gia đang thống khổ dưới ách của chế độ phát Xít và... thực dân.” Riêng ở Việt Nam, đối với một người tên là Hồ Chí Minh, bó đuốc này đã mang lại sức bùng vỡ của một ngọn hỏa diệm sơn, và ông ta đã thuộc lòng nó hơn là một bản kinh thánh, hơn cả những hứa hẹn của một thiên đường Cộng Sản xa vời. Người Annam không ủng hộ người Pháp cũng không theo người Nhật.... Họ chỉ là một đám người làm culi nô lệ, nhăn nhúm, rên rỉ và nhút nhát... nửa lừa, nửa dê, nhát như thỏ”.."chính những con người nhăn nhúm, rên rỉ, nửa lừa nửa dê này “đã hạ nhục Hoa Kỳ trên bãi chiến trường” (Theodore H White)

GHI DANH NHẬN BẢN TIN
Nhập địa chỉ email.